Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2020

THƠ BỐN CÂU - 111-120



111

Обилию воды всегда я удивляюсь,
Где нет земли, чтоб пашню поливать.
Обилию земли я тоже удивляюсь.
Где нет воды, чтоб пашню поливать.

111
Tôi luôn ngạc nhiên rằng nơi nhiều nước 
Không có đất để mà tưới đất cày. 
Tôi cũng ngạc nhiên rằng nơi nhiều đất 
Không có nước để mà tưới đất cày. 


112 
Жена говорит мне: «Когда это было?
В какой это день мы поссорились, милый?»
«Не помню что-то, – я ей отвечаю, –
Я попросту дней этих в жизнь не включаю».

112
Vợ bảo tôi: “Anh còn nhớ khi nào 
Là cái ngày hai chúng mình cãi lộn?” 
Tôi trả lời: “Anh chẳng nhớ ra đâu 
Những ngày này trong đời không tính đến”. 


113 
С чем речь людскую сравнить? Чему эта речь под стать
Сравню я ее с дождем, с его живою водою:
Дождь день идет – благодать, и два идет – благодать,
А не перестанет потом – станет большой бедою!

113
Biết lấy gì so sánh với lời nói con người? 
Tôi đem so với cơn mưa, với nước 
Mưa một ngày – tuyệt vời, mưa hai ngày – rất tốt 
Nhưng mưa mãi không dừng thành đại họa cho người.  



114 
Ступка пожаловалась барабану:
«Бьют и не платят… А бьют постоянно…»
«Бьют и меня, – барабан ей в ответ, –
Бьют и не кормят, – и выхода нет…»

114
Cối than phiền với trống xong rồi khóc: 
“Người ta đánh tôi mà chẳng trả tiền…” 
Trống trả lời: “Tôi cũng bị thường xuyên 
Đánh mà không nuôi – chẳng có cách nào khác…”


115
«Какой он властелин и падишах,
Когда рабами он повелевает?»
«Но где не знают рабства, в тех краях
И власти падишахов не бывает!»

115
“Ông thật đáng là vị chúa tể, đế vương 
Khi ông sai khiến những người nô lệ”. 
“Nhưng ở nơi không biết cuộc đời nô lệ 
Thì chốn này không có những vị đế vương”. 


116 
Убили Махмуда, поэта-певца,
Потом схоронил я поэта-отца.
Один я остался, как третье Койсу:
До Каспия воды свои донесу?

116
Chúng giết Makhmut, người ca sĩ – nhà thơ 
Sau đó tôi chôn cất nhà thơ – người bố. 
Còn mình tôi như dòng Côi-xu thứ ba 
Mang nước nguồn về biển Caxpiên tôi đổ. 



117 
Перед охотой сокола подряд
Три дня, три ночи голодом морят.
У тех, кто к власти рвется, тот же взгляд,
Глаза таким же голодом горят.

117
Trước cuộc đi săn người ta buộc chim ưng 
Suốt ba ngày, ba đêm liền nhịn đói. 
Với những kẻ tham quyền hành cũng vậy 
Đôi mắt rực lên cơn đói của chim ưng. 


118 
Я вижу: в человеческой природе
Нет постоянства, ибо там и тут
Доступные девицы нынче в моде
И песни те, что люди не поют.

118
Tôi thấy rằng: bản chất con người ta 
Không chung thuỷ, bởi nơi này, nơi khác 
Những cô gái dễ gần chỉ thích hát 
Những bài ca mà chẳng có ai ca. 


119 
Пред смертью горец молвил: «Я ни разу,
Как сын, не огорчил отца и мать.
Спасибо, рок, за эту благодать…»
О, мне б изречь им сказанную фразу!

119
Trước cái chết chàng trai thốt lên rằng: 
“Chưa một lần làm khổ đau cha mẹ 
Cảm ơn số phận vì điều ân huệ…” 
Giá mà tôi được nói những lời chàng. 


120
Клянусь, ума не нужно для того,
Чтоб сделались влюбленные четою,
Но верьте мне, – а я вниманья стою, –
Что нет мудрее в мире ничего.

120
Tôi xin thề trí thông minh không cần 
Để biến hai người yêu nhau thành đôi lứa 
Nhưng hãy tin rằng tôi rất để ý 
Rằng trên đời chẳng có gì khôn hơn. 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét