Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2020

THƠ BỐN CÂU - 161-166


161
Ведя войска, Тимур и Чингисхан
Топтали земли покоренных стран.
Сегодня Чингисханы и Тимуры
Свои же земли разоряют хмуро.

161
Thành Cát Tư Hãn, Timur từng đưa quân
Giày xéo đất đai những nơi chinh phục. 
Còn ngày hôm nay cũng chính các ông
Làm cho đất đai của mình khánh kiệt.
____________
*Thành Cát Tư Hãn (1155 – 1227) – người sáng lập Đế quốc Mông Cổ; Timur hay Thiếp Mộc Nhĩ (1336 – 1405) – nhà vua, tướng quân, người sáng lập triều đại Thiếp Mộc Nhĩ ở Ba Tư và Trung Á. 


162
Вы, горцы, на горах среди камней селились,
В ущельях каменистых вы теснились.
Над вами небо звездами блистало
Одно и то же. Но разве это мало?

162
Người núi rừng định cư trên núi đá
Trong hẻm sâu cũng chẳng phải ít đâu.
Bầu trời sao vẫn tỏa sáng trên đầu
Như mọi nơi. Chẳng lẽ là chưa đủ?


163
Соседей более ворчливых в мире нет,
Все ссоримся мы — я и Магомед.
Таких соседей добрых в мире нет,
Живем в согласье — я и Магомед.

163
Không có hàng xóm xấu hơn trên đời
Luôn cãi nhau – tôi và Mahômét.
Không có hàng xóm tốt hơn trên đời
Sống hòa thuận – tôi và Mahômét. 



164
– Деревья, обдуваемы ветрами,
Вам нет покоя, как и мне, ночами.
– Мы там, где жизнь. Мы жизни учим тех,
Кто видит в ней безветрье для утех.

164
– Ơi cây bị gió làm cho nghiêng ngả
Bạn không yên như tôi vẫn hằng đêm.
– Chúng tôi luôn dạy đời cho những kẻ
Chỉ thấy trong đời lặng gió, trời êm. 


165 
Đừng cố gắng làm người đi trước nhất 
Thường những ai đi trước dễ ăn đòn. 
Cũng đừng gắng làm người đi sau chót 
Người đi sau bị gậy đánh vào chân. 


166
Người trên đường bước lặng yên, thanh thản 
Chẳng bận lòng vì sắc đẹp của em. 
Họ chẳng thấy gì dù cho mắt sáng 
Giá mà anh mượn được họ mắt nhìn.


THƠ BỐN CÂU - 151-160


151 
Страна погибает, дают нам рецепты,
Как это исправить, как вылечить это.
Рецепты от краха, от разных мытарств…
Но нету в аптеках подобных лекарств.

151
Đất nước điêu tàn, người ta kê đơn thuốc 
Bảo cách làm sao trị khỏi những bệnh này 
Khỏi sợ hãi, cực hình, đớn đau, khổ nhục 
Nhưng hiệu thuốc lấy đâu ra những loại thuốc kia.  


152
– Почему так много фраз? – Потому что нет порядка.
– Почему так много краж? – Потому что нет порядка.
– Почему же смерть везде? – Потому что нет порядка.
– Почему ж любовь в узде? – Потому что нет порядка.

152
Sao người ta nói nhiều? – bởi vì không trật tự 
Sao ăn trộm nhiều? – Cũng vì thế mà thôi. 
Không trật tự – người chết ở khắp nơi 
Tình bị buộc dây cương cũng vì không trật tự. 


153
Обманут я, но мне себя не жалко,
Обманутые песни — вот что жалко,
Поверишь — плохо, и не веришь — плохо,
Будь проклята ты, лживая эпоха. 

153
Tôi bị lừa nhưng mà không than thở 
Chỉ những bài thơ bị lừa dối tôi thương. 
Tin cũng dở mà không tin cũng dở 
Một câu rủa nguyền cho thời đại dối gian. 



154
Все, что я б хотел от всей души воспеть,
Ты воспел, Махмуд. Никак мне не успеть.
Все ты совершил, что я б свершить хотел...
Путь мой в Игали – свой завершить удел.

154
Tất cả những gì tôi mong bằng tất cả tấm lòng
Thì anh đã hát lên, Mahmut. Tôi không theo kịp.
Những gì anh đã làm, tôi cũng mong làm được
Đường về Igali của tôi là định mệnh của mình. 
____________
*Igali – tên một ngôi làng ở Dagestan. 


155 
Мы сами оказались виноваты,
Что одичали разум и любовь,
Что не стихи, не лунные сонаты,
А пули в нас воспламеняют кровь.

155
Hóa ra chúng ta tự mình có lỗi
Để tình yêu, lý trí trở thành hoang
Không phải thơ, không xô-nát ánh trăng
Mà những viên đạn đốt lên trong máu. 


156
Волшебница сказала: «Можешь ты
Доверить мне желанья и мечты?»
«Хочу я землю, как отец, пахать,
А после в тихой сакле отдыхать».

156
Phù thủy bảo tôi: “Nhà ngươi có thể
Tin ở ta những mong ước của mình?” 
“Tôi chỉ muốn được cày đất như bố
Sau đó nghỉ trong nhà đá lặng yên”.


157 
Аулам горным не нужны шоссе,
По ним ползут лишь сплетни да раздоры.
Хочу, чтобы в нетронутой красе
Стояли и молчали наши горы.

157
Làng trên núi chẳng cần chi đường lớn
Thiên hạ ưa thêu dệt, hóng tin đồn.
Tôi chỉ mong giữa vẻ đẹp trinh nguyên
Đồi núi của ta đứng trong im lặng.



158 
Война в моей душе, в моей крови.
Как избежать мне четкого раздела?
Нет государству дела до любви.
Любви до государства нету дела.

158
Một cuộc chiến trong hồn, trong máu tôi
Sự phân chia rạch ròi sao có được?
Nhà nước đâu quan tâm đến tình yêu
Còn tình yêu đâu quan tâm việc nước. 


159 
Чабан-старик и тощая отара
Под вечер возвращаются в кошару.
И я подобно чабану бреду,
Отару тощую стихов своих веду.

159
Ông già chăn và bầy cừu gầy nhom
Trở về chuồng mỗi khi hoàng hôn xuống. 
Tôi cũng giống như người chăn thơ thẩn
Đang chăn bầy thơ gầy guộc của mình.  


160 
Ослы бывают — мимо не пропустят.
И человек бывает в свой черед:
Коль спереди зайти к нему — укусит,
Коль сзади подойти к нему — лягнет.

160
Lừa đôi khi cản đường rất ngang bướng
Con người ta cũng chẳng khác chút nào:
Nếu ai đến từ phía trước – sẽ cắn
Ai đến từ phía sau – đá về sau. 




THƠ BỐN CÂU - 141-150


141
Ремень отцовский в детстве очень страшен.
Бывало, спрячусь, в угол и забьюсь.
Я маленьким всегда боялся старших,
Теперь я больше молодых боюсь.

141
Hồi nhỏ tôi sợ dây da của bố 
Tôi thường trốn vào trong góc thật xa 
Hồi còn nhỏ tôi luôn sợ người già 
Còn bây giờ lũ trẻ con tôi sợ. 


142
Перед войной мой старший брат женился,
На свадьбе сапогами он гордился.
Все гости тоже ими восхищались…
Лишь сапоги от тех времен остались.

142
Anh trai tôi cưới vợ trước chiến tranh 
Anh tự hào khoe giày trong đám cưới 
Những người khách cũng tự hào giày mới 
Chỉ giày bây giờ còn lại với thời gian. 


143 
Альтернативы все, альтернативы.
Все надо выбирать да выбирать.
У Дагестана нет альтернативы:
Он мне отец, и колыбель, и мать.

143
Tất cả cử tri cần lựa chọn 
Tất cả bầu, tất cả chọn ra. 
Dagestan không có lựa chọn 
Người là nôi, là mẹ, là cha. 



144
Крестьянину про Кремль я рассказал,
Дворцы и залы — все я описал.
В тупик меня поставил мой земляк:
— А есть ли у тебя в Кремле кунак?

144
Tôi kể cho người nông dân về điện Kremlanh 
Những cung điện, những gian phòng tráng lệ. 
Ông hỏi tôi một câu khó vô cùng: 
- Ở đó có không người anh em kết nghĩa? 


145 
Сюда хаджи свои сердца несут,
Молитвами наполненный сосуд.
Я в Мекке был. Молитв не воссылал,
Твое лишь имя я пролепетал.

145
Kẻ hành hương mang đến đây con tim 
Những lời cầu nguyện chạy trong huyết quản. 
Khi ở Mecca anh không cầu nguyện 
Mà chỉ thì thầm mỗi cái tên em. 


146 
Что суждено, с тобою то и станет,
Уйдет былое, будущее грянет.
Но лишь любви большой и настоящей
Дано быть юной и непреходящей. 

146
Điều gì trời định sẽ đến với anh 
Quá khứ đi qua, tương lai sẽ đến 
Nhưng chỉ có tình yêu chân chính 
Được trời cho tuổi trẻ và vĩnh hằng. 


147 
Не просила подождать моя любовь,
Неожиданно пришла сама, как новь.
Песня тоже не просила: «Подожди!»
Родилась она сама в моей груди!

147
Tình yêu tôi không xin: “Chờ một chút!” 
Mà tình yêu tự đến rất bất ngờ. 
Bài ca cũng không khẩn khoản: “Hãy chờ!” 
Mà bài ca tự sinh trong lồng ngực! 


148 
После Сталина я никого не боялся –
Ни Хрущева Никиты, ни прочих из них.
И собою самим, как поэт, оставался,
И при этом не врал я, в отличье от них.

148
Sau Stalin tôi không còn sợ ai 
Không Khơ-rút-sốp, không những người như thế 
Tôi sống bằng chính bản thân mình, thi sĩ 
Khác người ta, tôi không dối điều này. 



149 
Послушать если матерей планеты,
Все дочери Джокондами бы были.
Хвалили если б всех подряд поэтов,
Мы Пушкина давно бы позабыли.

149
Nếu tất cả con gái của mẹ hành tinh 
Đều là những nàng Gioconda tuyệt mỹ. 
Nếu ta khen hết mọi nhà thi sĩ 
Thì từ lâu ta đã quên Puskin. 


150 
Был я как лань, что легка и стройна,
Стал я под старость похож на слона.
Сердце птенцом трепетало, бывало,
Буйволом в луже барахтаться стало.

150
Tôi đã từng như con chim Đama nhẹ nhàng 
Giờ tuổi già giống như con voi lê bước. 
Dù đôi khi con tim như chim non vẫn xốn xang 
Nhưng đã thành con trâu vẫy vùng trong vũng nước. 




THƠ BỐN CÂU - 131-140


131 
Что бы там ни кричали стоусто
О грядущем пути, все равно:
Поднимаюсь я в горы — там пусто.
А в ущелье спускаюсь — темно.

131
Dù người ta có gào thét trăm lần 
Về con đường tương lai thì tôi vẫn 
Đi lên núi – núi đồi toàn trống rỗng 
Rồi đi xuống khe – khe tối như bưng. 


132 
Я был из тех, кто камень добывал,
Чтобы чертогам светлым возноситься.
Но каменщик, который стены клал,
Построил не чертоги, а темницу.

132
Tôi trong số những người đi đào đá 
Cho người ta xây cung điện nguy nga 
Nhưng cung điện không xây, mà người thợ 
Đem đá của tôi đi xây nhà tù. 


133 
Бумаги чистый лист так жаждет слов,
Перо в руке, и я писать готов.
Но вспомнил вдруг о ней, о ней, о ней…
Молчанье стало песнею моей.

133
Trang giấy trắng đang khao khát những lời
Bút trong tay, tôi sẵn sàng để viết
Nhưng bỗng nhiên nhớ về em bất chợt
Im lặng trở thành bài hát của tôi. 



134 
Душа то в муках корчится, то пляшет,
То снег идет, то дождь идет на пашни.
Но пашня, если доброе зерно,
Вся золотою станет все равно.

134
Tâm hồn khi khổ đau, khi nhảy nhót 
Khi tuyết rơi, khi mưa xối trên đồng 
Nhưng cánh đồng nếu gặp mùa tươi tốt 
Thì đồng đất đi đâu cũng thành vàng. 


135 
По тюрьмам я ни разу не сидел,
В Кремле я рядом с сильными сидел,
Полжизни там напрасно просидел.
Напрасно жил, напрасно поседел…

135
Chốn ngục tù chưa một lần từng sống 
Mà chỉ từng ngồi trong điện Kremlanh 
Nửa cuộc đời ngồi đấy thật hoài công 
Tôi đã sống, đã ngồi rất phí uổng. 


136
Вопрос в анкете: был ли я судим?
Я каждый день и каждый миг судим.
За день вчерашний я судим сегодня.
А завтра ад настанет за сегодня.

136
Câu hỏi trong tờ khai: “Đã từng bị phán xét?” 
Tôi phán xét tôi từng phút từng giờ. 
Ngày hôm nay xét xử ngày hôm qua 
Còn ngày mai xét hôm nay địa ngục. 



137
Несу раздумий ношу на подъем,
Как мне достичь удастся перевала?
Ведь их, раздумий, больше с каждым днем,
А сил моих все меньше… вовсе мало.

137
Tôi mang theo ý nghĩ khi lên đèo 
Biết làm sao để đi lên tới đỉnh? 
Bởi ý nghĩ cứ mỗi ngày một nhiều 
Mà sức tôi… thì chỉ còn ít lắm. 


138 
Кто струны на пандуре рвет?
Глупцы.
Кто ссорится с женой и с горя пьет?
Глупцы.
С соседями кто мирно не живет?
Глупцы.
Тогда, спрошу я,
— где же мудрецы?

138
Ai làm đứt dây đàn? 
Người dại. 
Ai tranh cãi với vợ con? 
Người dại. 
Ai không hoà thuận với láng giềng? 
Người dại. 
Thì khi đó tôi hỏi: 
-Thế ở đâu hết rồi người khôn? 


139 
Уходит вождь, приходит новый вождь,
Законы, заседанья, словопренья…
Земле нужны крестьяне, солнце, дождь,
А не нужны бумажные решенья.

139
Quan cũ đi, đến thay quan mới 
Lại họp hành, luật lệ mới không thôi… 
Mặt đất cần nông dân, mưa và mặt trời 
Chứ không phải nghị quyết trên trang giấy. 


140 
Я в жизни столько выслушал речей,
Зевоту подавляя для приличья,
А в это время где-то пел ручей,
И где-то раздавалось пенье птичье.

140
Tôi trong đời nghe nhiều bài phát biểu 
Cơn ngáp dài đành phải lấy tay bưng 
Trong khi đó dòng suối hát trong rừng 
Và tiếng chim vang lên rất dễ chịu. 



THƠ BỐN CÂU - 121-130


121
И ты, кого все чествуют и славят,
Не забывайся, ибо, может статься,
По лестнице, тебя ведущей наверх,
Тебе же предстоит еще спускаться.

121
Anh bây giờ người ta đang trọng vọng 
Xin đừng quên, bởi đến một khi nào 
Theo bậc thang từng dẫn anh lên cao 
Có thể anh sẽ phải còn bước xuống. 


122 
Я знаю: ты ругаешь не меня –
Во мне другого видишь и ругаешь.
Я знаю: ты и хвалишь не меня –
Во мне себя увидел ты и хвалишь.

122
Anh biết rằng: em chẳng phải trách anh 
Mà trong anh người khác em quở trách. 
Anh biết rằng: em ngợi khen kẻ khác 
Ở trong anh em thấy và khen mình. 


123 
Я знаю наизусть всего Махмуда,
Но вот не понимаю одного:
Откуда о любви моей, откуда
Узнал он до рожденья моего?

123
Tôi thuộc lòng tất cả thơ Makhmud 
Nhưng mà không sao hiểu được một điều: 
Vì sao tình yêu của tôi, vì sao 
Khi tôi còn chưa sinh ông biết trước? 


124
Закону следуя, в теченье дня пять раз
Усердный человек творит намаз,
Мне надо бы – грехам потерян счет –
Не пять творить намазов, а пятьсот.

124
Theo luật lệ: trong một ngày năm lần 
Người ngoan đạo phải chăm lo cầu nguyện. 
Giá mà tôi – lỗi lầm không tính đến 
Không phải năm lần mà là năm trăm. 


125 
У нас перед домом чинара росла,
Но падают листья, ведь осень пришла.
Я тоже, как дерево, гордо стоял,
Слова, как осенние листья, ронял.

125
Trước nhà tôi cây tiêu huyền đang lớn 
Nhưng trút lá vàng khi đến mùa thu 
Giống như cây, tôi đứng đây kiêu hãnh 
Buông những lời như lá rụng mùa thu. 


126 
Висят кинжал с пандуром на стене.
Идут года, казаться стало мне:
Возьму пандур – кинжал из ножен рвется,
Кинжал – пандур вдруг стоном отзовется.

126
Đàn và dao tôi vẫn treo trên tường 
Tháng năm trôi, tôi ngỡ là có chuyện: 
Dao rời khỏi vỏ – khi tôi ôm đàn 
Khi tôi cầm lấy dao – đàn lên tiếng.  


127 
Грозятся нам законов кулаки,
Они грозны, сильны, хитры, ловки,
Я песнями своими простоват,
Но все кажется, что в чем-то виноват.

127
Họ đe dọa chúng tôi dùng luật rừng 
Họ dũng mãnh, khôn ngoan và dữ dội 
Tôi ngây thơ với bài hát của mình 
Nhưng nghĩ rằng có điều chi lầm lỗi. 



128 
Ах, кони, кони, где вы все теперь?
Ах, песни, песни, где вы все теперь?
Не слышно больше звяканья уздечки,
А вместо песен – речи, речи, речи…

128
Những con ngựa, các ngươi ở đâu rồi? 
Và các ngươi, giờ ở đâu, bài hát? 
Không còn nghe tiếng gõ đều móng guốc 
Thay vì bài ca – chỉ thấy những lời. 


129 
Сто ласковых названий для верблюда
В арабском языке, подобно чуду.
А мы друг друга бранью осыпаем,
По тысяче ругательств изрыгаем.

129
Trăm tên gọi dễ thương cho lạc đà 
Bằng tiếng Ả Rập như điều kỳ diệu. 
Còn con người khi chửi nhau tuôn ra 
Cả nghìn câu rất chi là tục tĩu. 


130 
Орать с трибуны предлагают мне,
Не лучше ли шептаться в тишине
С красавицей застенчивой и юной,
Чем глотки драть на митинге с трибуны?

130
Người ta gọi tôi bước lên diễn đàn 
Tôi thích được thì thầm trong im lặng 
Với cô gái đẹp trẻ trung, e thẹn 
Còn hơn gào to ở chốn diễn đàn. 



THƠ BỐN CÂU - 111-120



111

Обилию воды всегда я удивляюсь,
Где нет земли, чтоб пашню поливать.
Обилию земли я тоже удивляюсь.
Где нет воды, чтоб пашню поливать.

111
Tôi luôn ngạc nhiên rằng nơi nhiều nước 
Không có đất để mà tưới đất cày. 
Tôi cũng ngạc nhiên rằng nơi nhiều đất 
Không có nước để mà tưới đất cày. 


112 
Жена говорит мне: «Когда это было?
В какой это день мы поссорились, милый?»
«Не помню что-то, – я ей отвечаю, –
Я попросту дней этих в жизнь не включаю».

112
Vợ bảo tôi: “Anh còn nhớ khi nào 
Là cái ngày hai chúng mình cãi lộn?” 
Tôi trả lời: “Anh chẳng nhớ ra đâu 
Những ngày này trong đời không tính đến”. 


113 
С чем речь людскую сравнить? Чему эта речь под стать
Сравню я ее с дождем, с его живою водою:
Дождь день идет – благодать, и два идет – благодать,
А не перестанет потом – станет большой бедою!

113
Biết lấy gì so sánh với lời nói con người? 
Tôi đem so với cơn mưa, với nước 
Mưa một ngày – tuyệt vời, mưa hai ngày – rất tốt 
Nhưng mưa mãi không dừng thành đại họa cho người.  



114 
Ступка пожаловалась барабану:
«Бьют и не платят… А бьют постоянно…»
«Бьют и меня, – барабан ей в ответ, –
Бьют и не кормят, – и выхода нет…»

114
Cối than phiền với trống xong rồi khóc: 
“Người ta đánh tôi mà chẳng trả tiền…” 
Trống trả lời: “Tôi cũng bị thường xuyên 
Đánh mà không nuôi – chẳng có cách nào khác…”


115
«Какой он властелин и падишах,
Когда рабами он повелевает?»
«Но где не знают рабства, в тех краях
И власти падишахов не бывает!»

115
“Ông thật đáng là vị chúa tể, đế vương 
Khi ông sai khiến những người nô lệ”. 
“Nhưng ở nơi không biết cuộc đời nô lệ 
Thì chốn này không có những vị đế vương”. 


116 
Убили Махмуда, поэта-певца,
Потом схоронил я поэта-отца.
Один я остался, как третье Койсу:
До Каспия воды свои донесу?

116
Chúng giết Makhmut, người ca sĩ – nhà thơ 
Sau đó tôi chôn cất nhà thơ – người bố. 
Còn mình tôi như dòng Côi-xu thứ ba 
Mang nước nguồn về biển Caxpiên tôi đổ. 



117 
Перед охотой сокола подряд
Три дня, три ночи голодом морят.
У тех, кто к власти рвется, тот же взгляд,
Глаза таким же голодом горят.

117
Trước cuộc đi săn người ta buộc chim ưng 
Suốt ba ngày, ba đêm liền nhịn đói. 
Với những kẻ tham quyền hành cũng vậy 
Đôi mắt rực lên cơn đói của chim ưng. 


118 
Я вижу: в человеческой природе
Нет постоянства, ибо там и тут
Доступные девицы нынче в моде
И песни те, что люди не поют.

118
Tôi thấy rằng: bản chất con người ta 
Không chung thuỷ, bởi nơi này, nơi khác 
Những cô gái dễ gần chỉ thích hát 
Những bài ca mà chẳng có ai ca. 


119 
Пред смертью горец молвил: «Я ни разу,
Как сын, не огорчил отца и мать.
Спасибо, рок, за эту благодать…»
О, мне б изречь им сказанную фразу!

119
Trước cái chết chàng trai thốt lên rằng: 
“Chưa một lần làm khổ đau cha mẹ 
Cảm ơn số phận vì điều ân huệ…” 
Giá mà tôi được nói những lời chàng. 


120
Клянусь, ума не нужно для того,
Чтоб сделались влюбленные четою,
Но верьте мне, – а я вниманья стою, –
Что нет мудрее в мире ничего.

120
Tôi xin thề trí thông minh không cần 
Để biến hai người yêu nhau thành đôi lứa 
Nhưng hãy tin rằng tôi rất để ý 
Rằng trên đời chẳng có gì khôn hơn.