Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2020

Hỡi người phụ nữ


50.О женщина, когда оставит вдруг

О женщина, когда оставит вдруг
Тебя твой верный иль неверный друг,
Я прилечу к тебе из дальней дали,
Затем, чтоб утолить твои печали,
Поклонник и должник твоих заслуг.

В любви от века, излучая свет,
Тебя самоотверженнее нет.
Грустил ли, веселился ли, бывало,
Лишь ты меня всех лучше понимала,
Дарившая мне милость и совет.

Случись, чем жил, все повторить сначала,
С моим, как прежде, твой сольется след.
В моей судьбе ты значила немало,
И впредь так будет до скончанья лет.

50.HỠI NGƯỜI PHỤ NỮ

Hỡi người phụ nữ, khi mà em bỏ lại
Người bạn của mình, dù chung thủy dù không
Thì anh bay đến bên em từ xa xăm
Để làm dịu nỗi buồn của em – người ấy
Là người mang ơn những công trạng của em.

Ánh sáng tỏa ra từ muôn thuở trong tình
Không có ai yêu quên mình hơn em cả.
Trong những khi vui, và có những khi buồn
Chỉ có mình em hiểu anh hơn tất cả
Ban tặng cho anh lòng thương xót, lời khuyên.

Sẽ lặp lại từ đầu những gì đã sống
Vết tích của em nhập vào dấu của anh.
Trong số phận anh em có nghĩa vô cùng
Và sẽ như thế cho đến ngày cuối tận.


Trong thời tuổi trẻ ngắn ngủi của anh


49.В стране недолгой молодости мне

В стране недолгой молодости мне
Друзья назвали имя недотроги,
И вздрогнул я. Но плавно, как во сне,
Ложился снег на горные отроги.

Пришли иные думы и тревоги.
И я слагал сонеты в тишине.
Но вдруг тебя я встретил у дороги
И с той поры пылаю, как в огне.

Летят года, как всадник на коне,
Но дальше путь мой от весны к весне,
Бледнее радость, горше неудача.

Буза прозрачна сверху, хмель – на дне.
Огонь любви, что был дарован мне,
Под старость разгорается все жарче.

49.TRONG THỜI TUỔI TRẺ NGẮN NGỦI CỦA ANH

Trong thời tuổi trẻ ngắn ngủi của anh
Bạn bè gọi tên người không được chạm
Anh rùng mình. Nhưng bơi trong giấc mộng
Tuyết đã nằm trên đỉnh của núi rừng.

Rồi có những nghĩ suy, lo âu nữa.
Anh viết bài sonnet trong lặng yên.
Nhưng bỗng gặp gỡ với em bên đường
Từ dạo đó anh cháy lên như lửa. 

Năm tháng trôi như người trên yên ngựa
Con đường anh từ xuân tới mùa xuân
Niềm vui ít, thất bại nhiều hơn thế. 

Buza* trong suốt phía trên, men say dưới đáy
Ngọn lửa tình trời đất tặng cho anh
Trong tuổi già, nóng bỏng hơn đang cháy.
______________
*Buza (hoặc Boza) là một loại đồ uống lên men phổ biến ở các nước Trung Á và một số nước Đông Âu có từ 4 – 6 % nồng độ cồn. 


Những cựu chiến binh về hưu


48.На пенсию выходят ветераны

На пенсию выходят ветераны,
Заслуги их, и подвиги, и раны
Забыть годам грядущим не дано.
А чем заняться этим людям старым,
Прильнув к перу, предаться мемуарам
Иль по соседним разбрестись бульварам
Затем, чтобы сражаться в домино?

Для поздних лет не все тропинки торны,
Зато любви все возрасты покорны,
Ее кавказский пленник я по гроб.
В отставку? Нет! Милы мне женщин чары.
Они мои давнишние сардары,
Пишу стихи о них, а мемуары
Писать не стану – лучше пуля в лоб!

48.NHỮNG CỰU CHIẾN BINH SỬA SOẠN VỀ HƯU

Những cựu chiến binh sửa soạn về hưu
Những chiến công, vết thương, công lao họ
Theo năm tháng không một ai quên cả.
Nhưng những người già này sẽ làm gì
Sẽ cầm bút, đắm chìm viết hồi ký
Hoặc phân tán trên những đường phố nhỏ
Cùng nhau chơi những ván domino?

Tuổi xế chiều đường đã bớt chông gai
Nhưng tình yêu không buông tha ai cả
Tôi người tù binh Kapkaz muôn đời.
Từ chức? Không! Tôi vẫn mê phụ nữ.
Họ là Serdar của tôi lâu rồi
Tôi làm thơ về họ, còn hồi ký
Viết làm chi – thà đạn bắn vào tôi!
_____________
*Serdar (hoặc Sardar) là một cấp bậc quân sự cao cấp trong Đế chế Ottoman, ở nhiều nước Trung đông và Ấn Độ và là một cấp bậc danh dự cao quý ở Montenegro và Serbia. 


Anh trong đời tha thứ cho nhiều thứ


47.Я в жизни многим многое прощал

Я в жизни многим многое прощал,
И на меня обиды не таили,
Сады, чьи листья осенью топтал,
Опять весною мне листву дарили.

Я и весенних не ценил щедрот,
Но не была весна ко мне сурова
И, все забыв, на следующий год
Меня своим теплом дарила снова.

А ты считаешь каждый мой огрех
И приговор выносишь слишком рано.
Ты, что добрей и совершенней всех,
Речей моих не слышишь покаянных.
Ты совершаешь тоже тяжкий грех:
Ты замечаешь все мои изъяны.

47.ANH TRONG ĐỜI THA THỨ CHO NHIỀU THỨ

Anh trong đời tha thứ cho nhiều thứ
Không thứ gì còn ác cảm với anh
Khu vườn mà lá thu anh giẫm lên
Sang mùa xuân vườn vẫn cho những lá.

Giàu có của mùa xuân anh không quí
Nhưng mùa xuân đâu khắc nghiệt với anh
Để sang năm sau, tất cả đều quên
Hơi ấm của mình tặng cho lần nữa. 

Còn em đếm từng tội lỗi của anh
Và đưa ra bản án thì sớm quá.
Em hoàn hảo, tốt đẹp hơn tất cả
Lại không nghe lời hối lỗi của anh.
Thì em cũng đã phạm một lỗi lầm:
Mọi sai sót của anh luôn để ý.


Em đừng tin


46.Не верь ты сверстнице своей бесстыдной

Не верь ты сверстнице своей бесстыдной,
Что на меня выплескивает грязь.
Любима ты, и, бедной, ей обидно,
Ведь и она красивой родилась.

Соседку старшую не слушай тоже,
Во всем ей чудится моя вина.
Обидно ей, что ты ее моложе
И что любима ты, а не она.

Пусть младшая соседка небылицы,
Меня ругая, станет городить,
Прошу: не верь, она того боится,
Что ей любимою, как ты, не быть.

От века злыми сплетницами были
Те женщины, которых не любили. 

46.EM ĐỪNG TIN

Em đừng tin người bạn gái đồng niên
Bày đặt chuyện, nói xấu anh đủ thứ
Em được yêu, còn cô ta nghèo khó
Mà quả thực, cô ấy cũng rất xinh.

Rồi cả cô hàng xóm lớn tuổi hơn
Cũng luôn nghĩ rằng anh người có lỗi.
Bực bội vì em trẻ hơn cô ấy
Em được yêu, mà cô ấy thì không. 

Và mặc cô hàng xóm nhỏ tuổi hơn
Trách mắng anh, nói những điều nhảm nhí
Em đừng tin, vì cô ta thấy sợ
Không trở thành người yêu dấu như em.

Muôn đời nay những kẻ luôn đặt điều
Là những phụ nữ không được ai yêu. 


Những bông hoa


45.Тобою принесенные цветы

Тобою принесенные цветы
Стоят, поникнув в тишине больничной.
Над ними нет привычной высоты,
И нет корней, и нет земли привычной.

Они похожи на больных людей,
Живущих под опекою врачебной,
Которых поят влагою целебной,
И все ж они день ото дня слабей. 

Больные люди, мы завороженно
На лепестки, на стебли, на бутоны,
На таинство недолгой красоты
Глядим и чувствуем, как непреклонно
Соединяют общие законы
Больных людей и чахлые цветы.

45.NHỮNG BÔNG HOA

Những bông hoa em mang vào bệnh viện
Chúng đứng đó, thả mình trong lặng yên
Không có chiều cao thông thường trên chúng
Không gốc rễ, không có vạt đất quen. 

Những bông hoa giống như những bệnh nhân
Sống dưới sự đỡ đầu nhờ thầy thuốc
Chúng phải uống thứ nước nào có ích
Và cứ theo ngày tháng chúng yếu dần. 

Hỡi người bệnh, chúng ta bị bùa chăng
Vì những cánh hoa, những cành, những nụ
Vì bí ẩn vẻ đẹp xinh ngắn ngủi
Và ta nhìn, ta cảm nhận, quyết tâm
Để đi kết nối những qui luật chung
Giữa người bệnh và hoa dần héo úa. 


Em nói rằng anh phải thường xuyên


44.Ты говоришь, что должен я всегда

Ты говоришь, что должен я всегда
Беречь себя во что бы то ни стало,
И так я прожил лишние года,
Хоть я и не берег себя нимало.

Как много было у меня друзей,
Но и своих друзей не мог сберечь я,
И многие ушли в расцвете дней
Давным-давно, еще до нашей встречи.

Как можно уберечься от забот,
От горя, боли, от переживанья,
От времени, что торопясь идет,
Считая наши годы и деянья?

Пусть я не берегусь, но бережет
Меня от бед твое существованье.

44.EM NÓI RẰNG ANH CẦN PHẢI 

Em nói rằng anh cần phải thường xuyên
Tự đề phòng, giữ mình trong mọi thứ
Anh từng sống những tháng năm thừa thãi
Dù không giữ mình không ít tháng năm. 

Anh từng có rất nhiều bạn bè thân
Nhưng mà anh không biết gìn giữ họ
Có nhiều người ra đi khi còn trẻ
Rất lâu trước ngày anh gặp được em. 

Biết làm sao giữ mình khỏi băn khoăn
Khỏi đau đớn, khổ tâm và xúc động
Khỏi thời gian cứ vội vàng xô đến
Đếm tháng năm và công việc của mình?

Dù cẩu thả, nhưng tai họa của anh
Sự tồn tại của em sẽ giữ gìn.


Một hôm điều kỳ diệu đến với tôi


43.Однажды и со мной случилось чудо

Однажды и со мной случилось чудо,
Иль по-другому это назови:
Стоял я над могилою Махмуда,
И встал из гроба он, певец любви.

И я сказал: «Как быть мне, научи,
Мое волненье в строки не ложится.
Прошу, учитель, одолжи ключи
Мне от ларца, где наш талант хранится».

И выслушал меня Любви певец
И, свой пандур отставив осторожно,
Ответил так: «Заветный тот ларец
Лишь собственным ключом открыть возможно.

Ищи, и ключ найдешь ты наконец,
И спетое тобой не будет ложно!»

43.MỘT HÔM ĐIỀU KỲ DIỆU ĐẾN VỚI TÔI

Một hôm điều kỳ diệu đến với tôi
Hoặc có thể gọi nó bằng cách khác:
Tôi đứng trên mộ của Mahmud
Ông bước ra – người ca sĩ tình yêu. 

Và tôi nói: “Thầy hãy dạy cho con
Để xúc động không nằm trong thơ nữa.
Và nếu được, cho con xin chìa khóa
Của chiếc hòm cất giữ những tài năng”. 

Người ca sĩ Tình yêu nghe tôi xong
Đem cây đàn đặt xuống rất cẩn trọng
Và trả lời: “Chiếc hòm kia thầm kín
Chỉ mở bằng chìa khóa của riêng mình. 

Hãy đi tìm chìa khóa, để cuối cùng
Không giả dối những lời con hát lên!”
____________
*Mahmud từ Kahab-Roso (1873-1919) – Nhà thơ Avar, tác giả của trường ca “Mariam” nổi tiếng. 


Người đẹp nhà thơ Eldarilav


42.Красавицу певец Эльдарилав

Красавицу певец Эльдарилав
Посватал из селения чужого,
Но выдали невесту за другого
Ее отец и мать, любовь поправ.

И на веселой свадьбе яд в вино
Подсыпали и дали стихотворцу.
И, хоть обман он понял, все равно
Рог осушил, как подобает горцу.

Он поступил, как повелел адат, –
То исполнять, что старшие велят.
И, рухнув возле самого порога,
Он так и не поднялся, говорят.

Мне кажется: я тоже пью из рога,
Хотя и знаю – там подмешан яд.

42.NGƯỜI ĐẸP NHÀ THƠ ELDARILAV

Người đẹp nhà thơ Eldarilav*
Đã yêu một người con gái làng bên
Nhưng cô gái được gả cho người khác
Cha mẹ cô đã xoay lại cuộc tình.

Trong đám cưới thuốc độc pha vào rượu
Và người ta mang nó đến cho anh
Mặc dù hiểu sự gian trá, nhưng đành
Uống hết sừng rượu như người miền núi. 

Anh đã làm theo phong tục quê mình
Hành động theo những gì người lớn bảo.
Và anh đổ gục xuống bên ngưỡng cửa
Không bao giờ còn có thể đứng lên.

Tôi ngỡ rằng tôi cũng uống bằng sừng
Dù biết rằng – có thuốc độc bên trong. 
_______________
* Eldarilav (1847 – 1882) – nhà thơ Avar nổi tiếng của thế kỷ 19, người làng Ruguja ở Dagestan. 


Cha của tôi là nhà thơ miền núi


41.Был мой родитель горским стихотворцем

Был мой родитель горским стихотворцем.
За долгий век он написал в стихах
О всех соседях, всех хунзахских горцах,
Об их деяньях светлых и грехах.

И вот пришли однажды старики
И так сказали: «Мы понять не можем,
Как вышло, что о той, кто всех дороже,
Не сочинил ты ни одной строки?»

Но было у отца свое сужденье:
Кто, мол, жену возносит – тот глупец,
А кто жену поносит – тот подлец.
...А я всю жизнь писал стихотворенья
О собственной жене, и наконец
Я понял лишь теперь, что прав отец.

41.CHA CỦA TÔI LÀ NHÀ THƠ MIỀN NÚI

Cha của tôi là nhà thơ miền núi
Trong thế kỷ dài ông đã làm thơ
Về những người hàng xóm, người vùng cao
Về những việc vinh quang và tội lỗi. 

Rồi một hôm có mấy ông già ghé
Họ nói rằng: “Không hiểu được vì sao
Mà về người anh quí hơn tất cả
Thì anh lại không viết một dòng nào?”

Nhưng cha tôi có quan điểm của cha:
Rằng ai tôn vinh vợ mình – là ngu
Ai chửi bới vợ mình – là đểu cáng. 
…Còn tôi cả đời viết những bài thơ
Về vợ của mình, và chỉ bây giờ
Tôi hiểu ra, rằng cha tôi đã đúng.


Trên đầu của chúng ta vào lúc ấy


40.Над головами нашими весною

Над головами нашими весною
Шумело дерево на склоне гор,
И мы в тот час не думали с тобою,
Что дровосек уже вострил топор.

Любовь людей на дерево похожа,
Она цветет, на свете все презрев,
Ужели и она бессильна тоже,
Как перед топором стволы дерев?

Мы дерево свое растили долго.
Тряслись всегда над детищем своим,
Так неужели злу и кривотолкам
Его мы на погибель отдадим?

Ужель обиды наши и сомненья
Позволят превратить его в поленья?

40.TRÊN ĐẦU CỦA CHÚNG TA VÀO LÚC ẤY

Trên đầu của chúng ta vào lúc ấy
Cây rì rào bên sườn núi mùa xuân
Khi đó anh không suy nghĩ cùng em
Rằng đã mài rìu người đi kiếm củi.

Tình yêu của người như một thân cây
Cây nở hoa và coi thường tất cả
Nhưng chẳng lẽ cây cũng đành ẻo lả
Khi trước thân cây là một cái rìu?

Cây của mình rất lâu ta chăm chút
Và thường xuyên run rẩy trước đứa con
Chẳng lẽ ta lại trao con của mình
Cho lời vu khống và cho cái ác?

Chẳng lẽ những điều nghi ngờ, hờn dỗi
Lại cho phép biến tình yêu thành củi?


Chắc gì còn một phần ba con đường


39.Осталась нам едва ли треть пути

Осталась нам едва ли треть пути.
С тобою век мы прожили, и ныне
Мечтаю жизнь окончить и уйти
Я до того, как ты меня покинешь.

А ты последний час мой освети,
Забудь свои обиды, умоляю,
Прошу: еще за то меня прости,
Что малое наследство оставляю.

Хоть все и говорят, что я богат,
В действительности я богат не очень.
Награды? Что тебе от тех наград?

Тебе я оставляю наших дочек
Да песни, о которых говорят,
Что сделал их не я, а переводчик.

39.CHẮC GÌ CÒN MỘT PHẦN BA CON ĐƯỜNG

Chắc gì còn một phần ba con đường
Anh và em đã sống gần thế kỷ
Mong kết thúc cuộc đời và đi khỏi
Trước cái ngày mà em giã từ anh. 

Hãy soi sáng cho anh giờ cuối cùng
Và xin em quên những điều hờn dỗi
Và thêm một điều tha thứ cho anh
Rằng gia tài nhỏ nhoi anh để lại.

Dù người đời nói rằng anh giàu có
Trên thực tế thì giàu có gì không
Những giải thưởng? Em cầm gì giải ấy?

Để lại cho em các cô con gái
Những bài thơ, mà thiên hạ nói rằng
Không của anh, mà của người chuyển ngữ. 


Có một phong tục của người miền núi


38.Обычай старый есть в горах у нас

Обычай старый есть в горах у нас:
Коль провожают замуж дочь родную,
Чтоб род ее навеки не угас,
Вручают ей лучину смоляную.

Горит очаг под крышею моей,
Горит, твоей лучиною зажженный,
Которая дороже и ценней
Иных богатств, тобою принесенных.

Горит очаг все жарче и светлей,
Блистают в наших волосах седины,
И, может быть, уже пути не длинны
До тех счастливых и печальных дней,
Когда и мы проводим дочерей,
Им в руки дав зажженные лучины.

38.CÓ MỘT PHONG TỤC CỦA NGƯỜI MIỀN NÚI

Có một phong tục của người miền núi:
Khi tiễn con gái mình đi lấy chồng
Để cho nòi giống vẫn còn mãi mãi
Phải trao cho con đóm lửa cháy lên. 

Giờ bếp lửa cháy dưới mái nhà anh
Cháy từ mồi lửa mà em đã nhóm
Cái này quí và có giá trị hơn
Những tài sản mà em từng mang đến. 

Bếp lửa cháy và mỗi lúc một nóng
Soi sáng lên mái tóc bạc chúng mình
Có thể chưa dài lắm những con đường
Đến những ngày vui và buồn như vậy
Khi chúng mình tiễn các cô con gái
Trao vào tay con đóm lửa cháy lên. 


Bị em giam lỏng hơn hai mươi năm


37.В твоем плену я двадцать с лишним лет

В твоем плену я двадцать с лишним лет,
И кажется, ты мне связала руки.
Но вот порою друг или сосед
Берет меня из плена на поруки.

Но на свободе грустен я и слаб,
Вокруг бесцветно все, все лица серы.
И, как свободу получивший раб,
Я жить не в силах без своей галеры.

Так, с привязи сорвавшись, волкодав
Лишь поначалу весело резвится,
Но вскоре, все заборы обежав,
Спешит к привычной цепи возвратиться.

И я, свободе горестной взамен,
Предпочитаю свой извечный плен.

37.BỊ EM GIAM LỎNG HƠN HAI MƯƠI NĂM

Bị em giam lỏng hơn hai mươi năm
Anh ngỡ như chân tay mình bị trói
Nhưng một hôm ông láng giềng đi tới
Giải thoát anh ra khỏi cảnh giam cầm.

Ra tự do anh yếu đuối, anh buồn
Mọi gương mặt xung quanh đều màu xám
Giống kẻ nô lệ tự do được nhận
Biết sống làm sao khi thiếu chiến thuyền. 

Giống như chó săn phá được dây xiềng
Chỉ lúc đầu nhảy cẫng lên vui vẻ
Nhưng một hồi chạy vòng quanh bờ giậu
Lại quay về với xiềng xích đã quen. 

Và anh thích đem tự do buồn khổ
Đổi lấy giam cầm của em mãi mãi.