Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2020

Trong thời tuổi trẻ ngắn ngủi của anh


49.В стране недолгой молодости мне

В стране недолгой молодости мне
Друзья назвали имя недотроги,
И вздрогнул я. Но плавно, как во сне,
Ложился снег на горные отроги.

Пришли иные думы и тревоги.
И я слагал сонеты в тишине.
Но вдруг тебя я встретил у дороги
И с той поры пылаю, как в огне.

Летят года, как всадник на коне,
Но дальше путь мой от весны к весне,
Бледнее радость, горше неудача.

Буза прозрачна сверху, хмель – на дне.
Огонь любви, что был дарован мне,
Под старость разгорается все жарче.

49.TRONG THỜI TUỔI TRẺ NGẮN NGỦI CỦA ANH

Trong thời tuổi trẻ ngắn ngủi của anh
Bạn bè gọi tên người không được chạm
Anh rùng mình. Nhưng bơi trong giấc mộng
Tuyết đã nằm trên đỉnh của núi rừng.

Rồi có những nghĩ suy, lo âu nữa.
Anh viết bài sonnet trong lặng yên.
Nhưng bỗng gặp gỡ với em bên đường
Từ dạo đó anh cháy lên như lửa. 

Năm tháng trôi như người trên yên ngựa
Con đường anh từ xuân tới mùa xuân
Niềm vui ít, thất bại nhiều hơn thế. 

Buza* trong suốt phía trên, men say dưới đáy
Ngọn lửa tình trời đất tặng cho anh
Trong tuổi già, nóng bỏng hơn đang cháy.
______________
*Buza (hoặc Boza) là một loại đồ uống lên men phổ biến ở các nước Trung Á và một số nước Đông Âu có từ 4 – 6 % nồng độ cồn. 


Những cựu chiến binh về hưu


48.На пенсию выходят ветераны

На пенсию выходят ветераны,
Заслуги их, и подвиги, и раны
Забыть годам грядущим не дано.
А чем заняться этим людям старым,
Прильнув к перу, предаться мемуарам
Иль по соседним разбрестись бульварам
Затем, чтобы сражаться в домино?

Для поздних лет не все тропинки торны,
Зато любви все возрасты покорны,
Ее кавказский пленник я по гроб.
В отставку? Нет! Милы мне женщин чары.
Они мои давнишние сардары,
Пишу стихи о них, а мемуары
Писать не стану – лучше пуля в лоб!

48.NHỮNG CỰU CHIẾN BINH SỬA SOẠN VỀ HƯU

Những cựu chiến binh sửa soạn về hưu
Những chiến công, vết thương, công lao họ
Theo năm tháng không một ai quên cả.
Nhưng những người già này sẽ làm gì
Sẽ cầm bút, đắm chìm viết hồi ký
Hoặc phân tán trên những đường phố nhỏ
Cùng nhau chơi những ván domino?

Tuổi xế chiều đường đã bớt chông gai
Nhưng tình yêu không buông tha ai cả
Tôi người tù binh Kapkaz muôn đời.
Từ chức? Không! Tôi vẫn mê phụ nữ.
Họ là Serdar của tôi lâu rồi
Tôi làm thơ về họ, còn hồi ký
Viết làm chi – thà đạn bắn vào tôi!
_____________
*Serdar (hoặc Sardar) là một cấp bậc quân sự cao cấp trong Đế chế Ottoman, ở nhiều nước Trung đông và Ấn Độ và là một cấp bậc danh dự cao quý ở Montenegro và Serbia. 


Những bông hoa


45.Тобою принесенные цветы

Тобою принесенные цветы
Стоят, поникнув в тишине больничной.
Над ними нет привычной высоты,
И нет корней, и нет земли привычной.

Они похожи на больных людей,
Живущих под опекою врачебной,
Которых поят влагою целебной,
И все ж они день ото дня слабей. 

Больные люди, мы завороженно
На лепестки, на стебли, на бутоны,
На таинство недолгой красоты
Глядим и чувствуем, как непреклонно
Соединяют общие законы
Больных людей и чахлые цветы.

45.NHỮNG BÔNG HOA

Những bông hoa em mang vào bệnh viện
Chúng đứng đó, thả mình trong lặng yên
Không có chiều cao thông thường trên chúng
Không gốc rễ, không có vạt đất quen. 

Những bông hoa giống như những bệnh nhân
Sống dưới sự đỡ đầu nhờ thầy thuốc
Chúng phải uống thứ nước nào có ích
Và cứ theo ngày tháng chúng yếu dần. 

Hỡi người bệnh, chúng ta bị bùa chăng
Vì những cánh hoa, những cành, những nụ
Vì bí ẩn vẻ đẹp xinh ngắn ngủi
Và ta nhìn, ta cảm nhận, quyết tâm
Để đi kết nối những qui luật chung
Giữa người bệnh và hoa dần héo úa. 


Một hôm điều kỳ diệu đến với tôi


43.Однажды и со мной случилось чудо

Однажды и со мной случилось чудо,
Иль по-другому это назови:
Стоял я над могилою Махмуда,
И встал из гроба он, певец любви.

И я сказал: «Как быть мне, научи,
Мое волненье в строки не ложится.
Прошу, учитель, одолжи ключи
Мне от ларца, где наш талант хранится».

И выслушал меня Любви певец
И, свой пандур отставив осторожно,
Ответил так: «Заветный тот ларец
Лишь собственным ключом открыть возможно.

Ищи, и ключ найдешь ты наконец,
И спетое тобой не будет ложно!»

43.MỘT HÔM ĐIỀU KỲ DIỆU ĐẾN VỚI TÔI

Một hôm điều kỳ diệu đến với tôi
Hoặc có thể gọi nó bằng cách khác:
Tôi đứng trên mộ của Mahmud
Ông bước ra – người ca sĩ tình yêu. 

Và tôi nói: “Thầy hãy dạy cho con
Để xúc động không nằm trong thơ nữa.
Và nếu được, cho con xin chìa khóa
Của chiếc hòm cất giữ những tài năng”. 

Người ca sĩ Tình yêu nghe tôi xong
Đem cây đàn đặt xuống rất cẩn trọng
Và trả lời: “Chiếc hòm kia thầm kín
Chỉ mở bằng chìa khóa của riêng mình. 

Hãy đi tìm chìa khóa, để cuối cùng
Không giả dối những lời con hát lên!”
____________
*Mahmud từ Kahab-Roso (1873-1919) – Nhà thơ Avar, tác giả của trường ca “Mariam” nổi tiếng. 


Người đẹp nhà thơ Eldarilav


42.Красавицу певец Эльдарилав

Красавицу певец Эльдарилав
Посватал из селения чужого,
Но выдали невесту за другого
Ее отец и мать, любовь поправ.

И на веселой свадьбе яд в вино
Подсыпали и дали стихотворцу.
И, хоть обман он понял, все равно
Рог осушил, как подобает горцу.

Он поступил, как повелел адат, –
То исполнять, что старшие велят.
И, рухнув возле самого порога,
Он так и не поднялся, говорят.

Мне кажется: я тоже пью из рога,
Хотя и знаю – там подмешан яд.

42.NGƯỜI ĐẸP NHÀ THƠ ELDARILAV

Người đẹp nhà thơ Eldarilav*
Đã yêu một người con gái làng bên
Nhưng cô gái được gả cho người khác
Cha mẹ cô đã xoay lại cuộc tình.

Trong đám cưới thuốc độc pha vào rượu
Và người ta mang nó đến cho anh
Mặc dù hiểu sự gian trá, nhưng đành
Uống hết sừng rượu như người miền núi. 

Anh đã làm theo phong tục quê mình
Hành động theo những gì người lớn bảo.
Và anh đổ gục xuống bên ngưỡng cửa
Không bao giờ còn có thể đứng lên.

Tôi ngỡ rằng tôi cũng uống bằng sừng
Dù biết rằng – có thuốc độc bên trong. 
_______________
* Eldarilav (1847 – 1882) – nhà thơ Avar nổi tiếng của thế kỷ 19, người làng Ruguja ở Dagestan. 


Cha của tôi là nhà thơ miền núi


41.Был мой родитель горским стихотворцем

Был мой родитель горским стихотворцем.
За долгий век он написал в стихах
О всех соседях, всех хунзахских горцах,
Об их деяньях светлых и грехах.

И вот пришли однажды старики
И так сказали: «Мы понять не можем,
Как вышло, что о той, кто всех дороже,
Не сочинил ты ни одной строки?»

Но было у отца свое сужденье:
Кто, мол, жену возносит – тот глупец,
А кто жену поносит – тот подлец.
...А я всю жизнь писал стихотворенья
О собственной жене, и наконец
Я понял лишь теперь, что прав отец.

41.CHA CỦA TÔI LÀ NHÀ THƠ MIỀN NÚI

Cha của tôi là nhà thơ miền núi
Trong thế kỷ dài ông đã làm thơ
Về những người hàng xóm, người vùng cao
Về những việc vinh quang và tội lỗi. 

Rồi một hôm có mấy ông già ghé
Họ nói rằng: “Không hiểu được vì sao
Mà về người anh quí hơn tất cả
Thì anh lại không viết một dòng nào?”

Nhưng cha tôi có quan điểm của cha:
Rằng ai tôn vinh vợ mình – là ngu
Ai chửi bới vợ mình – là đểu cáng. 
…Còn tôi cả đời viết những bài thơ
Về vợ của mình, và chỉ bây giờ
Tôi hiểu ra, rằng cha tôi đã đúng.


Trên đầu của chúng ta vào lúc ấy


40.Над головами нашими весною

Над головами нашими весною
Шумело дерево на склоне гор,
И мы в тот час не думали с тобою,
Что дровосек уже вострил топор.

Любовь людей на дерево похожа,
Она цветет, на свете все презрев,
Ужели и она бессильна тоже,
Как перед топором стволы дерев?

Мы дерево свое растили долго.
Тряслись всегда над детищем своим,
Так неужели злу и кривотолкам
Его мы на погибель отдадим?

Ужель обиды наши и сомненья
Позволят превратить его в поленья?

40.TRÊN ĐẦU CỦA CHÚNG TA VÀO LÚC ẤY

Trên đầu của chúng ta vào lúc ấy
Cây rì rào bên sườn núi mùa xuân
Khi đó anh không suy nghĩ cùng em
Rằng đã mài rìu người đi kiếm củi.

Tình yêu của người như một thân cây
Cây nở hoa và coi thường tất cả
Nhưng chẳng lẽ cây cũng đành ẻo lả
Khi trước thân cây là một cái rìu?

Cây của mình rất lâu ta chăm chút
Và thường xuyên run rẩy trước đứa con
Chẳng lẽ ta lại trao con của mình
Cho lời vu khống và cho cái ác?

Chẳng lẽ những điều nghi ngờ, hờn dỗi
Lại cho phép biến tình yêu thành củi?


Có một phong tục của người miền núi


38.Обычай старый есть в горах у нас

Обычай старый есть в горах у нас:
Коль провожают замуж дочь родную,
Чтоб род ее навеки не угас,
Вручают ей лучину смоляную.

Горит очаг под крышею моей,
Горит, твоей лучиною зажженный,
Которая дороже и ценней
Иных богатств, тобою принесенных.

Горит очаг все жарче и светлей,
Блистают в наших волосах седины,
И, может быть, уже пути не длинны
До тех счастливых и печальных дней,
Когда и мы проводим дочерей,
Им в руки дав зажженные лучины.

38.CÓ MỘT PHONG TỤC CỦA NGƯỜI MIỀN NÚI

Có một phong tục của người miền núi:
Khi tiễn con gái mình đi lấy chồng
Để cho nòi giống vẫn còn mãi mãi
Phải trao cho con đóm lửa cháy lên. 

Giờ bếp lửa cháy dưới mái nhà anh
Cháy từ mồi lửa mà em đã nhóm
Cái này quí và có giá trị hơn
Những tài sản mà em từng mang đến. 

Bếp lửa cháy và mỗi lúc một nóng
Soi sáng lên mái tóc bạc chúng mình
Có thể chưa dài lắm những con đường
Đến những ngày vui và buồn như vậy
Khi chúng mình tiễn các cô con gái
Trao vào tay con đóm lửa cháy lên. 


Bị em giam lỏng hơn hai mươi năm


37.В твоем плену я двадцать с лишним лет

В твоем плену я двадцать с лишним лет,
И кажется, ты мне связала руки.
Но вот порою друг или сосед
Берет меня из плена на поруки.

Но на свободе грустен я и слаб,
Вокруг бесцветно все, все лица серы.
И, как свободу получивший раб,
Я жить не в силах без своей галеры.

Так, с привязи сорвавшись, волкодав
Лишь поначалу весело резвится,
Но вскоре, все заборы обежав,
Спешит к привычной цепи возвратиться.

И я, свободе горестной взамен,
Предпочитаю свой извечный плен.

37.BỊ EM GIAM LỎNG HƠN HAI MƯƠI NĂM

Bị em giam lỏng hơn hai mươi năm
Anh ngỡ như chân tay mình bị trói
Nhưng một hôm ông láng giềng đi tới
Giải thoát anh ra khỏi cảnh giam cầm.

Ra tự do anh yếu đuối, anh buồn
Mọi gương mặt xung quanh đều màu xám
Giống kẻ nô lệ tự do được nhận
Biết sống làm sao khi thiếu chiến thuyền. 

Giống như chó săn phá được dây xiềng
Chỉ lúc đầu nhảy cẫng lên vui vẻ
Nhưng một hồi chạy vòng quanh bờ giậu
Lại quay về với xiềng xích đã quen. 

Và anh thích đem tự do buồn khổ
Đổi lấy giam cầm của em mãi mãi. 


Không ở đâu cảm thấy mình nhỏ bé


36.Нигде не чувствовал себя такой крупицей

Нигде не чувствовал себя такой крупицей,
Как здесь, где высится безбрежный океан.
Его я слушал, и воздал он мне сторицей –
Легенды пел, дарил мелодий ураган...

К нему пришел я гневом, болью поделиться,
Обидой жгучей! Но, смеясь, как мальчуган,
Он говорил мне: глупо гневаться и злиться
На то, что честь твою порочит интриган.

Я ни сочувствия не вызвал, ни печали.
Он говорил: какие выстрелы звучали,
Какие бури посещали белый свет,
Но все на месте – океан, скала, поэт!

Живи, как будто все твои невзгоды –
Ошибочный прогноз бюро погоды.

36.KHÔNG Ở ĐÂU CẢM THẤY MÌNH NHỎ BÉ

Không ở đâu cảm thấy mình nhỏ bé
Như ở đây, trước biển cả mênh mông
Tôi lắng nghe, biển trả gấp trăm lần
Bằng huyền thoại, những lời ca của gió… 

Tôi đến đây đem nỗi đau chia sẻ
Giận vô cùng! Nhưng như cậu bé con
Biển nói rằng: giận dữ là điên khùng
Để kẻ gian hùng làm mất danh dự. 

Tôi không thấy cảm thông hay buồn bã
Biển nói rằng: dù tiếng súng vang lên
Dù bao cơn bão quét qua trần gian
Vẫn an vị – biển, nhà thơ, vách đá! 

Hãy sống cứ như nghịch cảnh của ngươi –
Là do cơ quan dự báo thời tiết sai.  


Im lặng còn hơn tranh luận


35.Молчите лучше! Спор о песне и о хлебе

Молчите лучше! Спор о песне и о хлебе –
Лишь пустозвонство, лживый фарс и болтовня.
Отца клевали, а теперь клевать меня
Вы принимаетесь – ведь мой отец на небе!

А у него, признаться, не было ни дня
Без ваших коршунских нападок и долбежки:
«Мир – это хлеб, и мы съедим его до крошки,
А песней кормят не народ, а соловья».

«Нет, мне не надо сверх того, что я имею», –
Он пел и горцев ободрял струной своею.
Теперь воздвигнут он страной на пьедестал,
Теперь Гамзатом дорогим для вас он стал.

Но я ведь сын его и знаю, как завзята
Корысть, спешащая купить портрет Гамзата.

35.IM LẶNG CÒN HƠN TRANH LUẬN

Im lặng còn hơn tranh luận về thơ và bánh mì
Chỉ những lời ba hoa, những trò nói nhảm.
Họ từng đánh cha tôi, bây giờ tôi – họ đánh
Các anh có sao không – cha tôi ở trên trời! 

Phải thừa nhận rằng không có lấy một ngày
Mà cha tôi không bị người xúc phạm:
“Thế giới là bánh mì, chúng ta ăn từng mảnh
Nhưng thơ dân không viết ra mà chỉ họa mi”.

“Không, tôi không cần nhiều hơn những gì tôi có” –
Ông từng ngợi ca những người con của núi rừng.
Và giờ đây đất nước đã dựng tượng của ông
Gamzat trở nên thân thương với bao nhiêu người đó. 

Nhưng tôi là con ông, tôi biết rằng lợi lộc
Khi vội vàng đi mua bức chân dung Gamzat. 


Ngoài chiến trường


34.О, пропавший без вести солдат

О, пропавший без вести солдат
На войне, в атаке огневой,
Ждет тебя отчизна, дом и сад –
Возвращайся, ты для нас живой!

Но назвать могу я целый ряд
Заживо погибших! Постовой
Задержать их, проходимцев, рад –
Скрыли адрес, заработок свой...

А когда от них приходит весть,
Плачет мать, не в силах перенесть, –
Лучше бы в далекой стороне
Без вести пропали на войне.

Презираю! Не о них пою –
О погибших без вести в бою.

34.NGOÀI CHIẾN TRƯỜNG 

Ngoài chiến trường có biết bao người lính
Từng mất tích trong những cuộc tấn công
Tổ quốc chờ các anh, ngôi nhà, khu vườn
Với chúng tôi, các anh đang còn sống!

Nhưng tôi có thể gọi tên khối kẻ
Sống như mà chết! Hỡi những chốt canh
Hãy bắt giữ họ, những kẻ gian hùng
Giấu địa chỉ và tiền nong của họ… 

Để khi về họ người ta đưa tin
Bà mẹ khóc, dường như không chịu nổi –
Thà ở một nơi xa xôi nào đấy
Cứ như người mất tích trong chiến tranh. 

Tôi khinh bỉ! Tôi không ca về họ
Mà chỉ về những người mất tích nọ. 


Những kiến thức của anh là vô tận


33.Неизмеримы знания мои

Неизмеримы знания мои,
Неведенье мое неизмеримо.
Но меркнет перед мудростью любви
Ученый мир, когда ты мной любима.

Забыл я все, чего забыть не мог.
Тебя одну забыть не в состоянье.
Но этого мне хватит, видит бог,
Когда померкнет память на прощанье.

Что было, есть и будет? Ты одна –
Мой прошлый век, сегодняшний, грядущий.
Одна во все ты будешь времена, –
Клянусь, что я поющий, но не лгущий!

Я не завидовал, не мстил, не угнетал.
Кто о судьбе такой прекрасной не мечтал?

33.NHỮNG KIẾN THỨC CỦA ANH LÀ VÔ TẬN

Những kiến thức của anh là vô tận
Và vô vàn thiếu hiểu biết của anh. 
Nhưng thế giới khoa học đứng trước tình
Sẽ mờ nhạt khi được em yêu mến. 

Anh quên tất cả, nhưng không quên được
Một mình em là không thể nào quên. 
Nhưng mà anh thấy đủ, Thượng Đế nhìn
Khi giã biệt đang nhạt dần ký ức. 

Tất cả những gì đã, đang và sẽ
Quá khứ, hiện tại và tương lai anh
Em ở trong tất cả mọi thời gian
Anh xin thề, anh không hề nói dối!

Anh không ganh tỵ, không áp bức, trả thù
Cuộc đời đẹp như thế ai không mơ? 


Hỡi vách đá Tsadin


32.Мой краток век, Цадинская скала

Мой краток век, Цадинская скала,
Я – человек, а ты живешь веками.
Но я успел вкусить добра и зла
И боль терпел, как твой живучий камень.

Открылись мне поступки и дела,
Невиданные скалами доселе.
И кровь из ран душевных потекла,
Струясь, как влага из твоих расселин.

И ты, быть может, в странствиях была
И потому спокойна, как твердыня.
А может быть, от горного орла
Ты знаешь все, что происходит ныне?

Веками стоя как бессонный страж,
Ответь: тут был ли век такой, как наш?

32.HỠI VÁCH ĐÁ TSADIN

Hỡi vách đá Tsadin, cuộc đời tôi ngắn ngủi
Tôi là con người, còn ngươi sống ngàn năm.
Nhưng tôi nếm trải thiện ác ở trần gian
Và chịu đựng nỗi đau như là hòn đá vậy. 

Những công việc đã mở ra cho tôi
Những gì mà đá cũng không biết nổi.
Từ những vết thương tâm hồn máu chảy
Như nước chảy từ kẻ hở của ngươi. 

Có thể là ngươi xưa từng đi lại
Mà lặng yên, giống như bức trường thành.
Mà có thể, từ những chim đại bàng
Ngươi biết tất cả những gì đang xảy?

Xin người canh hàng thế kỷ trả lời:
Có thế kỷ nào như thế kỷ chúng tôi? 


Tôi cúi mình trước Phương Tây


31.Я преклоняюсь перед Западом, когда

Я преклоняюсь перед Западом, когда
Хожу по Лувру, слышу музыку Шопена...
Любовь Петрарки, Дон Кихота доброта,
Крылатость Гейне — жизнь без них несовершенна!

Перед Востоком преклоняюсь! Погляди
На это дивное японское трехстишье,
Там три арбы: две – сзади, третья – впереди, –
Все остальное для сокровища излишне!

Я преклоняюсь перед Севером давно!
Богатыри великих саг – несокрушимы!
Я перед Югом преклоняюсь! Пью вино
Его поэзии... Хафиз, Хайям – вершины!

Низкопоклонство это мне не повредит, –
Твердит мне Пушкин и Махмуд в горах твердит.

31.TÔI CÚI MÌNH TRƯỚC PHƯƠNG TÂY

Tôi cúi mình trước Phương Tây, khi dạo
Bảo tàng Louvre và nghe nhạc Sô-panh… 
Don Kihôtê, Hainơ, Petrarch thơ tình
Mà thiếu họ thì đời đâu hoàn hảo!

Tôi cúi mình trước Phương Đông! Hãy xem
Thật tuyệt vời thơ ba câu của Nhật
Hai câu – phía sau, câu thứ ba – phía trước
Mọi thứ khác là thừa thãi, không cần!

Tôi cúi mình trước Phương Bắc từ lâu!
Những anh hùng ca không gì phá hủy!
Cúi mình trước Phương Nam! Tôi uống rượu
Thơ Hafiz, Khayyam… là những đỉnh cao!

Sự cúi mình này không hề có hại
Pushkin nhắc, Mahmud nhắc trên núi. 


Người đã chết phải về với đất đai


30.Умерший должен предан быть земле

Умерший должен предан быть земле,
Где умер он, так небо начертало.
Отец мой погребен в Махачкале,
И смотрит он на площадь с пьедестала.

А брат, от ран погибший на войне,
Над Волгой похоронен в Балашове.
Другой, в бою не пожалевший крови,
Остался в черноморской глубине.

В Буйнакске мать моя погребена,
Была святейшей женщиной она.

Я старшим стал, теперь черед за мной.
Но, где бы от недуга или пули
Я ни окончил грешный путь земной,
Молю меня похоронить в ауле.

30.NGƯỜI ĐÃ CHẾT PHẢI VỀ VỚI ĐẤT ĐAI

Người đã chết phải về với đất đai
Dù chết ở đâu, sách trời định rõ.
Bố tôi chôn ở Makhachkala
Và ông nhìn ra quảng trường từ bệ.

Còn anh trai đã chết trong chiến tranh
Chôn ở vùng Volga, thành phố Balashov
Một người khác cũng chết nơi trận mạc
Đã bỏ mình ở dưới đáy biển đen. 

Mẹ tôi chôn ở Buynaksk, Dagestan 
Bà là một người phụ nữ thánh thiện.

Tôi đã già, giờ đến lượt của mình
Dù chết vì chiến tranh hay bệnh tật
Khi con đường trần của tôi kết thúc
Tôi cầu xin chôn tôi ở trong làng.