Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 79-84



79
На лбу твоем алеющий кружок
Горит, как на письме печать, о Индия.
Я вскрыл конверт и по дорожкам строк
Иду, хочу тебя понять, о Индия.

Я вижу всюду нищие дома.
Я много писем получал, о Индия.
Но горестнее твоего письма
До сей поры я не читал, о Индия.

79
Trên trán Người một chấm son cháy đỏ
Như dấu triện trong thư, Ấn Độ ơi
Tôi mở phong bì theo từng dòng chữ
Tôi muốn ôm lấy Người, Ấn Độ ơi.

Tôi thấy khắp nơi những nhà rách nát
Rất nhiều thư tôi nhận, Ấn Độ ơi
Nhưng khổ đau hơn bức thư của Người
Cho đến bây giờ tôi chưa hề đọc.

  

80
Проносят жениха на свадьбе в Дели,
И музыканты проявляют прыть.
Родные лет пятнадцать скудно ели,
Копя гроши, чтоб свадьбу оплатить.

И молодым еще придется годы
Пот проливать, чтоб вылезть из долгов.
Порой свобода малого народа
Оплачена, как свадьба бедняков.

80
Ở Đê-li chú rể làm đám cưới
Thì những nhạc công thể hiện hết mình.
Cha mẹ chàng rể khó nhọc mười lăm năm
Gom từng đồng để trả cho đám cưới.

Đôi vợ chồng trẻ còn nhiều năm nữa
Đổ mồ hôi để trả hết nợ nần.
Giá tự do nhiều dân tộc cũng thế
Được trả như đám cưới kẻ bần nông.




81
Когда б жестокосердье человечье
Могло бы превратиться в снег и лед,
Была бы на планете стужа вечной
От южных и до северных широт.

Когда бы стала доброта людская
Водою родниковой, то всегда
На всей земле от края и до края
Журчала бы прозрачная вода.

81
Giá mà những con tim ác độc
Có thể biến thành tuyết, thành băng
Thì hành tinh này từ nam chí bắc
Sẽ là mùa đông băng giá vĩnh hằng.

Còn giá như lòng tốt của con người
Sẽ trở thành một nguồn nước mạch
Thì trên trái đất này khắp mọi nơi
Một dòng suối trong muôn đời róc rách.



82
Порой мне кажется: я целина.
То прогибаюсь я от урожая,
То чахну я и сохну, не рожая
Ни колоска, ни стебля, ни зерна.

Мне мнится: - я хранилище зерна,
Оно от хлеба ломится порою,
Порой зимою в нем лишь ветер воет.
И всем грозит голодная весна.

82
Tôi ngỡ mình như đồng đất khô cằn
Vì mùa màng tôi phải oằn lưng xuống
Tôi còm cõi, héo khô nhưng mà chẳng
Sinh cho đời dù một ngọn hay bông.

Tôi lại ngỡ mình là kho đựng lúa
Lúa đổ đầy tôi muốn vỡ tung ra.
Còn mùa đông gió gào thét trong kho
Và báo trước một mùa xuân đói khổ.




83
Везде поэты ропщут, что стихов
Не ценят люди и не понимают,
И тещи разных стран своих зятьев
За невниманье к женам укоряют.

Равно клянут шоферы всей земли
Полицию со злобою привычной.
Я понял, что у всех людей земли
Гораздо больше сходства, чем различья.

83
Khắp thế giới các nhà thơ than phiền
Rằng bạn đọc không hiểu thơ, không quí
Các bà mẹ thường trách rể của mình
Là tại sao không quan tâm tới vợ.

Các tài xế trách cảnh sát của mình
Vì thói quen họ cho là tai ác.
Tôi hiểu rằng mọi người trên hành tinh
Có nhiều điểm giống nhau hơn là khác.



84
Когда-то в старину карали строго
Людей, дерзавших рисовать людей.
Считалось: подобает только богу
Все смертное творить рукой своей.

У человека много черт, которых
Не передаст ни краска, ни узор.
Ведь на картинках даже лес и горы
Бледнее истинных лесов и гор.

84
Thuở xa xưa phạt nghiêm khắc những kẻ
Dám cả gan đem ra vẽ hình người
Bởi cho rằng chỉ một mình Thượng đế
Tạo ra bằng bàn tay của Ngài thôi.

Có rất nhiều đường nét của con người
Không vẽ được, dù hoa văn hay mực
Bởi trong tranh ngay cả núi và đồi
Tái nhợt hơn cả đồi và núi thực.



THƠ TÁM CÂU - 73-78



73
Я ничуть не удивляюсь, что ж -
Будет так и было так от века:
Яд и злоба, клевета и ложь
Насмерть поражают человека.

Но никак понять мне не дано,
Почему порою так бывает -
И любовь, и правда, и вино
Тоже человека убивают.

73
Có một điều không làm tôi kinh ngạc
Những điều này đã có tự lâu rồi:
Sự vu khống, dối gian và thuốc độc
Những thứ làm nên cái chết con người.

Nhưng có lẽ trời không cho tôi biết
Tại vì sao vẫn tồn tại một điều:
Là rượu, sự thật và cả tình yêu
Cũng là những thứ làm cho người chết.


74
Буддисты верят – смерти нет для них,
Что все равно душа их воплотится
В существ земли каких-нибудь других -
Не в человека - так в цветок иль птицу.

Каков бы ни был - малый иль большой,
Я, стихотворец, мог ли не стремиться
К тому, чтобы при жизни стать душой
И человека, и цветка, и птицы.

74
Phật tử tin rằng không bao giờ chết
Bởi lẽ rằng hồn họ sẽ hoá thân
Vào sinh linh nào đó trên mặt đất
Chẳng con người thì hoa cỏ, chim muông.

Tôi nhà thơ – dù bé hay dù lớn
Liệu có thể chăng tôi được trở thành
Linh hồn của muôn loài khi đang sống
Cả con người, cả hoa cỏ, chim muông.




75
«О снежные горы и снежное поле,
Как я одолел вас ненастной порой?»
«Ты смог одолеть нас не оттого ли,
Что песня и друг были рядом с тобой?»

«О горная речка с крутым водопадом,
Как мог перейти я твой бурный поток?»
«Когда бы не песня, не спутник твой рядом,
Вовек ты меня одолеть бы не смог».

75
“Ơi những ngọn đồi, cánh đồng tuyết trắng
Tôi biết làm sao có thể đi qua?”
“Ngươi đi qua chúng tôi, một khi mà
Có bài hát và bạn đường bên cạnh”.

“Ơi con suối trong rừng cùng thác nước
Tôi biết làm sao có thể vượt qua?”
“Khi bài hát, người bạn đường ở xa
Thì muôn đời nhà ngươi không qua được”.



76
Я хочу, чтобы люди давали ответ
На эти вопросы всегдашние:
«Холодно вам?» - «Нет»
«Страшно ли вам?» - «Не страшно».

Я шел по земле, где беда и нужда,
Встречал я людей озабоченных.
«Холодно вам?» - «Да».
«Голодно вам?» - «Да».
«Страшно ли вам?» - «Очень».

76
Tôi muốn nghe người ta ra câu hỏi
Và câu trả lời sẽ là những lời sau:
“Có lạnh không?”
“Không”.
“Có đói không?”
“Không”.
“Có sợ hãi không?”
“Không”.

Tôi đi trên mặt đất này thiếu thốn
Gặp những con người phiền muộn, ưu tư:
“Có lạnh không?”
“Vâng”.
“Có đói không?”
“Vâng”.
“Có sợ hãi không?”
“Sợ vô cùng”.


77
Компрессы, шприцы и кислород из трубки,
Воюют жизнь и смерть, и до утра
Хлопочет, словно белая голубка,
У изголовья моего сестра.

О песнь моя, написанная кровью,
Мучительно я думаю порой:
Ты хоть однажды в чьем-то изголовье
Была ли милосердною сестрой?

77
Ống kim tiêm, ôxy dẫn từ vòi
Sống và chết giành giật nhau đến sáng
Người thầy thuốc giống như bồ câu trắng
Trên đầu giường người chị gái của tôi.

Bài thơ tôi được viết bằng máu đấy
Tôi đớn đau suy nghĩ một điều này:
Thơ dù một lần trên đầu giường của ai
Có là người chị nhân từ không vậy?

  

78
Смирись, Кавказ, идет Ермолов.
А. Пушкин

Нет, не смирялись и не гнули спины
Ни в те года, ни через сотню лет
Ни горские сыны, ни их вершины
При виде генеральских эполет.

Ни хитроумье бранное, ни сила
Здесь ни при чем. Я утверждать берусь:
Не Русь Ермолова нас покорила,
Кавказ пленила пушкинская Русь.

78
Hãy qui phục, Kavkaz, tướng Ermolov đang đến.
A. Puskin.

Không, không qui phục và lưng không cúi xuống
Không bấy giờ, không sau một trăm năm
Không những người con, không phải núi rừng
Vẻ sừng sững như vai bao vị tướng.

Không mưu chước tinh ranh, không sức mạnh
Mà tôi xin khẳng định một điều là:
Không phải bằng sức mạnh nước Nga đã thắng
Mà Kavkaz bí huyền đã quyến rũ nước Nga.


THƠ TÁM CÂU - 67-72



67
«Почему серебряная птица
К нашим не спускается ногам,
Нас она не любит иль боится?»
«Может, любит, но не верит нам!»

«Почему всегда и всюду звери
Норовят исчезнуть с наших глаз,
Нас не любят или же не верят?»
«Может, любят, но боятся нас!»

67
“Tại vì sao mà con chim màu trắng
Không bay vào đậu ở dưới chân ta?
Chim không yêu hay là chim sợ ta?”
“Có thể yêu, nhưng mà không tin tưởng!”

“Tại vì sao con thú trước mắt ta
Khắp mọi nơi đều tìm cách lẩn tránh?
Thú không yêu hay là không tin tưởng?”
“Có thể yêu nhưng vì thú sợ ta!”



68
Жизнь - ковер. Но ткал я неумело,
И теперь я сам себя стыжу.
Много лишних линий и пробелов
Я в своем узоре нахожу.

Книгу я писал, но неумело:
В ней пустым страницам нет числа.
Где в пути ты задержалась, зрелость?
Почему так поздно ты пришла?

68
Đời – tấm thảm. Nhưng tôi không biết dệt
Nên giờ đây thấy xấu hổ vô cùng.
Tôi tìm ra trong những viền hoạ tiết
Có quá nhiều những lỗ hổng, đường vênh.

Sách đã viết nhưng chẳng hề nhuần nhuyễn
Trong sách kia những trang nhạt ê hề
Ở đâu trên đường người dừng chân, độ chín
Và tại sao người đến muộn thế kia?




69
В Индии считается, что змеи
Первыми на землю приползли.
Горцы верят, что орлы древнее
Прочих обитателей земли.

Я же склонен думать, что вначале
Появились люди, и поздней
Многие из них орлами стали,
А иные превратились в змей.

69
Người Ấn Độ cho rằng trên mặt đất
Loài rắn là loài xuất hiện trước tiên
Người rừng núi tin rằng trên mặt đất
Chỉ chim đại bàng có mặt đầu tiên.

Còn riêng tôi, thì tôi lại nghĩ rằng
Chỉ con người xuất hiện, rồi sau đấy
Trong số họ nhiều người thành đại bàng
Còn số khác lại biến thành rắn vậy.



70
Вот родился маленький джигит, -
Мне мерещится, что я родился,
Где-то свадьба пляшет и шумит, -
Мне мерещится, что я женился.

Где-то в поле человек убит,
Где-то мать над павшим сыном стонет,
Где-то плачут женщины навзрыд.
Мне мерещится: меня хоронят.

70
Vừa mới sinh ra một chàng kỵ sĩ
Tôi ngỡ rằng tôi vừa mới ra đời.
Ở đâu đó đám cưới đang ầm ĩ
Tôi ngỡ rằng đang cưới vợ cho tôi.

Ở đâu đó có một người bị giết
Bà mẹ già thương tiếc đứa con trai
Những người phụ nữ ngồi khóc thảm thiết
Tôi ngỡ rằng những kẻ khác chôn tôi.



71
Хоть и давно я слышал сказку эту,
Она мне вспоминается опять:
Взяв за руку, водил по белу свету
Скорбящий сын свою слепую мать.

Он шел и шел и вылечил старуху,
И свет дневной увидела она...
Земля слепая, дай скорее руку,
Пойдем со мною, ты прозреть должна.

71
Dù từ lâu đã nghe câu chuyện kể
Nhưng giờ đây đang nhớ lại trong lòng:
Chuyện chàng trai đã cầm tay người mẹ
Người mẹ mù chập chững bước theo con.

Chàng cứ đi... chữa đôi mắt lành hẳn
Ánh sáng ngày giờ mẹ đã nhìn xa...
Trái đất mù hãy đưa tay tôi nắm
Đi cùng tôi người phải sáng mắt ra.



72
Все хлопают, все поздравляют стоя
Меня с очередною из наград.
А я не рад, я вижу: эти двое
Глядят в глаза мне и меня корят.

Они за мною следуют повсюду,
Их лица и мое - лицо одно..
Один старик, тот, кем я скоро буду,
Другой - мальчишка, кем я был давно.

72
Tất cả mọi người đứng dậy chúc mừng tôi
Họ vỗ tay mừng tôi thêm phần thưởng.
Nhưng tôi không vui, tôi thấy hai người
Nhìn vào mắt tôi có điều trách mắng.

Họ theo tôi khắp tất cả mọi miền
Gương mặt họ và của tôi rất giống
Một – ông già sau này tôi trở nên
Một – cậu bé là tôi thời xa vắng.



THƠ TÁM CÂU - 61-66



61
«Вон человек, что скажешь ты о нем?»
Ответил друг, плечами пожимая:
«Я с этим человеком незнаком,
Что про него хорошего я знаю?»

«Вон человек, что скажешь ты о нем?» -
Спросил я у товарища другого.
«Я с этим человеком незнаком,
Что я могу сказать о нем плохого?»

61
“Anh có thể nói gì về người này?”
Bạn tôi nhún vai, lắc đầu khó hiểu:
“Đi nói tốt về anh ta tôi chịu
Bởi tôi không quen biết con người này”.

“Anh có thể nói gì về người này?”
Tôi đem câu hỏi hỏi người bạn khác.
“Tôi không thể nói xấu anh ta được
Bởi tôi không quen biết con người này”.



62
Я не ложусь один, ко мне на грудь,
Как женщина, склоняется тревога.
То радость, то печаль спешат ко мне прильнуть,
И страх, как пес, ложится у порога.

Я не один встаю в начале дня.
Сначала просыпается тревога.
Встают печаль и радость до меня,
И страх уже скребется у порога.

62
Tôi không ngủ một mình – mà lên ngực
Như người yêu, nghiêng xuống nỗi muộn phiền
Cả sung sướng, buồn đau đều ghé sát
Và nỗi sợ bên thềm như chú chó con.

Tôi thức dậy buổi sáng không một mình
Mà đầu tiên nỗi muộn phiền thức dậy
Rồi sung sướng, buồn đau thức sau đấy
Và bên thềm nỗi sợ đã kêu lên.




63
Писателей мертвых издатели чтят,
Готовят их книги потомно.
Поэтов живых издавать не спешат,
Живых печатают скромно.

Я жив и поэтому скромен и тих.
Боюсь, потребую лишку:
За счет посмертных томов моих
При жизни издайте книжку.

63
Các nhà in quí trọng người đã chết
Họ đem in sách người chết thật dày
Người đang sống chẳng vội vàng in hết
Mà chỉ in sách mỏng, nhẹ trên tay.

Tôi đang sống nên tỏ ra khiêm tốn
Sợ có đi đòi hỏi cũng bằng thừa:
Thay vì khi đã chết rồi sách lớn
Xin hãy in dù sách nhỏ bây giờ.



64
Были плечи у меня белей,
Отчего же нынче почернели?
Черный цвет - остаток светлых дней
Грело солнце - плечи загорели.

Были волосы мои черней,
Отчего же нынче побелели?
Белизна осталась от ночей
Черных, освещенных еле-еле.

64
Bờ vai tôi trước đây màu trắng
Sao bây giờ bờ vai trở thành đen?
Màu đen – tàn tích của những ngày chiếu sáng
Cháy mặt trời, bờ vai cũng cháy lên.

Tóc của tôi trước đây có màu đen
Sao bây giờ tóc trở thành màu trắng?
Màu trắng là kết quả của những đêm
Những đêm đen đã nhọc nhằn chiếu sáng.



65
Я нынче песню позабыл свою,
Ту, что вчера казалась всех дороже.
И, может, песню, что сейчас пою,
Лишь день пройдет, я позабуду тоже

Но мне запала в душу песнь одна,
Ее мне пела мать с печалью скрытой,
Та песнь такой любовью рождена,
Что никогда не может стать забытой.

65
Tôi giờ đây quên bài hát của mình
Dù hôm qua ngỡ rằng quí hơn tất cả
Và có thể chỉ sau thêm ngày nữa
Bài hát bây giờ đang hát cũng quên.

Nhưng có một bài ca in đậm trong tim
Là bài hát ru với nỗi buồn của mẹ
Bài hát sinh ra từ tình yêu như thế
Không bao giờ có thể trở thành quên.



66
Я возраст свой забыл, зачем же мне
Твердишь, что я седой, а ты моложе?
Кто знает, может, в этой седине
И молодость твоя повинна тоже.

Меня не надо старостью корить,
Напоминать о возрасте бесцельно.
Жестоко раненому говорить
О том, что рана у него смертельна.

66
Anh bây giờ cố tình quên tuổi tác
Em nói rằng em còn trẻ hơn anh
Ai biết được trong mái đầu ánh bạc
Lỗi một phần là tuổi trẻ của em.

Chớ đem tuổi già ra mà trách mắng
Đi nhắc về tuổi tác chỉ vu vơ
Thật tàn nhẫn đi nói cho người bệnh
Rằng vết thương không chữa khỏi bao giờ.