13.Родной язык
Всегда во
сне нелепо всё и странно.
Приснилась
мне сегодня смерть моя.
В
полдневный жар в долине Дагестана
С свинцом
в груди лежал недвижно я.
Звенит
река, бежит неукротимо.
Забытый и
не нужный никому,
Я
распластался на земле родимой
Пред тем,
как стать землею самому.
Я умираю,
но никто про это
Не знает и
не явится ко мне,
Лишь в
вышине орлы клекочут где-то
И стонут
лани где-то в стороне.
И чтобы
плакать над моей могилой
О том, что
я погиб во цвете лет,
Ни матери,
ни друга нет, ни милой,
Чего уж
там — и плакальщицы нет.
Так я
лежал и умирал в бессилье
И вдруг
услышал, как невдалеке
Два
человека шли и говорили
На мне
родном, аварском языке.
В
полдневный жар в долине Дагестана
Я умирал,
а люди речь вели
О хитрости
какого-то Гасана,
О выходках
какого-то Али.
И, смутно
слыша звук родимой речи,
Я оживал,
и наступил тот миг,
Когда я
понял, что меня излечит
Не врач,
не знахарь, а родной язык.
Кого-то
исцеляет от болезней
Другой
язык, но мне на нем не петь,
И если
завтра мой язык исчезнет,
То я готов
сегодня умереть.
Я за него
всегда душой болею,
Пусть
говорят, что беден мой язык,
Пусть не
звучит с трибуны ассамблеи,
Но, мне
родной, он для меня велик.
И чтоб
понять Махмуда, мой наследник
Ужели
прочитает перевод?
Ужели я писатель
из последних,
Кто
по-аварски пишет и поёт?
Я жизнь
люблю, люблю я всю планету,
В ней
каждый, даже малый уголок,
А более
всего Страну Советов,
О ней я
по-аварски пел как мог.
Мне дорог
край цветущий и свободный,
От Балтики
до Сахалина — весь.
Я за него
погибну где угодно,
Но пусть
меня зароют в землю здесь!
Чтоб у
плиты могильной близ аула
Аварцы
вспоминали иногда
Аварским
словом земляка Расула —
Преемника
Гамзата из Цада.
13.TIẾNG
MẸ ĐẺ
Luôn trong
mơ mọi thứ rất lạ lùng
Ngày hôm
nay tôi mơ phút lâm chung.
Viên đạn
chì trong ngực, tôi bất động
Giữa buổi
trưa, thung lũng Dagestan.
Dòng sông
reo, sông nổi giận đùng đùng
Tôi bị bỏ
quên, không một ai cần
Tôi nằm
xoài trên mảnh đất quê mẹ
Trước khi
trở thành đất của quê hương.
Tôi đang
sắp chết, nhưng về điều này
Không ai
biết, không ai đến với tôi
Chỉ đại
bàng gào thét lên đâu đó
Và đâu đây
rên rỉ tiếng hươu nai.
Và để khóc
lóc trên mộ của tôi
Rằng tuổi
thanh xuân đã phải lìa đời
Không
người yêu, bạn bè hay cha mẹ
Còn nói gì
người khóc mướn cho ai.
Tôi nằm
thế, chết trong vẻ đã rồi
Bỗng đột
nhiên nghe rõ, chẳng xa xôi
Có hai
người vừa đi vừa nói chuyện
Bằng tiếng
Ava – tiếng mẹ đẻ của tôi.
Vào giữa
trưa trời nắng trong thung lũng
Tôi chết
rồi, thiên hạ vẫn nói gì
Về những
trò tinh nghịch của Ali
Về Hasan
nào đó đầy ranh mãnh.
Và nghe lờ
mờ âm thanh tiếng mẹ
Tôi hồi
sinh, và trong khoảnh khắc này
Tôi hiểu
rằng chữa lành bệnh cho tôi
Nhờ tiếng
mẹ, không phải nhờ bác sĩ.
Thứ tiếng
nào chữa lành bệnh cho ai
Nhưng bằng
tiếng này tôi không hát được
Nếu ngày
mai tiếng của tôi biến mất
Tôi sẵn
sàng để chết ngày hôm nay.
Bằng tấm
lòng tôi cổ vũ tiếng này
Dù ai nói
rằng tiếng tôi nghèo lắm
Không vang
lên trên diễn đàn chấp chính
Nhưng
tiếng tôi luôn vĩ đại với tôi.
Để hiểu
Mahmut, người thừa kế của tôi
Chẳng lẽ
rồi đây đọc qua bản dịch?
Chẳng lẽ
tôi là nhà văn sau chót
Người làm
thơ bằng tiếng Ava thôi?
Tôi yêu
đời, yêu cả trái đất này
Mà trong
đó, dù chỉ góc nhỏ nhặt
Và hơn hết
là quê hương Xô Viết
Bằng tiếng
Ava tôi hát về Người.
Tôi yêu
quí vùng đất tự do này
Từ biển
Baltic đến Sakhalin – tất cả.
Tôi sẽ
chết dù nơi nào cũng thế
Nhưng hãy
chôn tôi trên đất nơi đây.
Để trên
bia mộ gần ngôi làng kia
Người Ava
sẽ đôi khi nhớ lại
Tiếng Ava
của người đồng hương ấy
Rasul –
con của Gamzat, người làng Tsada.
_________
*Hasan,
Ali, Mahmut – là những tên riêng xuất phát từ tiếng Ả Rập, là những tên riêng
rất phổ biến trong thế giới Hồi giáo.
**Gamzat
Tsadasa (1877 – 1951) – cha của Rasul Gamzatov, nhà thơ nhân dân của nước cộng
hòa Dagestan; Tsada là ngôi làng nơi Rasul Gamzatov sinh ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét