Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

Em đưa bàn tay cho anh



6.Тобой протянутую руку

Тобой протянутую руку
Боюсь в ладонях задержать.
Боюсь, испытывая муку,
И слишком быстро отпускать.

И вновь тайком из странствий дальних
К тебе, единственной стремлюсь,
Боюсь я глаз твоих печальных,
Но и веселых глаз – боюсь.

Боюсь, когда сидишь весь вечер
Ты одинешенька - одна
Боюсь, с другим тебя замечу
Подумаю что не верна.

Боюсь: не все во мне ты видишь,
Боюсь: все видишь без труда,
Боюсь, что скоро замуж выйдешь,
Боюсь, не выйдешь никогда.

Боюсь я, слишком осторожный,
Тебя по имени назвать,
И боязно, что останешься
Ты безымянною опять.

6.EM ĐƯA BÀN TAY CHO ANH

Em đưa bàn tay cho anh
Anh sợ giữ trong tay mình
Anh sợ nếm mùi đau khổ
Và sao nỡ vội buông nhanh.

Và lại bí mật từ chốn xa xăm
Về người em duy nhất anh hướng đến
Anh sợ đôi mắt của em buồn thảm
Nhưng đôi mắt vui – anh cũng sợ luôn.

Anh sợ, khi suốt buổi chiều, em
Ngồi một mình, một mình – đơn độc
Lại sợ nhìn thấy em cùng người khác
Rồi nghĩ rằng em chẳng thủy chung.

Sợ em không nhìn thấy hết trong anh
Lại sợ thấy hết không chút nhọc nhằn
Anh sợ em đi lấy chồng sắp tới
Lại sợ em không bao giờ lấy chồng.

Anh sợ rằng, đã cẩn trọng quá chừng
Khi mà anh đem gọi tên em
Và thấy sợ rằng em lần nữa
Trở thành một kẻ vô danh.



Thơ viết trong đêm năm mới


5.Стихи, написанные в новогоднюю ночь

Милая, прошу я вновь прощения,
Милости твоей опять я жду.
Отпусти, прости мне прегрешения,
Все, что совершил я в том году.

Ты прости за то, что не однажды я
Каялся и ты прощала мне.
Ты прости свою слезинку каждую,
Пролитую по моей вине.

Ты прости мне, что, когда в дороге я
С делом и без дела пропадал,
Ты считала дни и ночи многие,
Между тем как я их не считал.

Ты прости мне завязи бесплодные,
Все, что я не сделал в этот год.
Все мои дела неподотчетные,
Хоть за них придется дать отчет.

Слепоту прости, что помешала мне
Видеть то, что на тебя навлек,
Глухоту, из-за которой жалобы
Я не слышал, хоть услышать мог.

Ты за все, что пережито-прожито,
Как всегда, простишь, меня любя,
Да и укорить меня не сможешь ты
Строже, чем корю я сам себя.

Я не поступался даже малостью,
Обижал я тех, кого любил.
Я прошу: прости меня, пожалуйста,
С легкостью, с которой я грешил.


5.THƠ VIẾT TRONG ĐÊM NĂM MỚI

Em thân yêu, lại xin em tha thứ
Anh lại mong chờ ân huệ của em
Em hãy tha thứ cho bao lầm lỡ
Những gì mà anh đã phạm trong năm. 

Tha cho anh, rằng không chỉ một lần
Anh nhận lỗi và rồi em tha thứ.
Giọt nước mắt vì lầm lỗi của anh
Đã rót xuống – em hãy tha cho nó.

Rằng có khi lên đường, anh rất bận
Hoặc không bận gì, rồi biến mất tăm
Em tính đếm rất nhiều ngày và đêm
Thế mà anh đã không hề tính đến. 

Hãy tha thứ cho những gì vô bổ
Tất cả những gì đã phạm trong năm
Công việc của anh không hề tính sổ
Mặc dù anh biết việc đó nên làm. 

Tha cho sự mù lòa từng cản trở
Anh nhìn ra những thứ đã gây ra 
Tật điếc đặc, không nghe lời than thở
Mặc dù anh đã có thể nghe mà.  

Những gì đã qua tha hết nghe em
Như mọi khi, vì yêu mà tha thứ
Em không thể quở trách anh hơn thế
Như anh đây vẫn tự quở trách mình.

Dù ít ỏi anh vẫn không hy sinh
Đi xúc phạm những người anh yêu mến
Anh mong em hãy tha thứ cho anh
Và nhẹ nhàng với người anh đã phạm. 



Đã đến lúc anh lên đường



4.Mне в дорогу пора

Дорогая моя, мне в дорогу пора,
Я с собою добра не беру.
Оставляю весенние эти ветра,
Щебетание птиц поутру.

Оставляю тебе и сиянье луны,
И цветы в тляротинском лесу,
И далекую песню каспийской волны,
И спешащую к морю Койсу,

И нагорья, где жмется к утесу утес,
Со следами от гроз и дождей,
Дорогими, как след недосыпа и слез
На любимых щеках матерей.

Не возьму я с собою сулакской струи.
В тех краях не смогу я сберечь
Ни лучей, согревающих плечи твои,
Ни травы, достигающей плеч

Ничего не возьму, что мое искони,
То, к чему я душою прирос,
Горных тропок, закрученных, словно ремни,
Сладко пахнущих сеном в покос.

Я тебе оставляю и дождь и жару,
Журавлей, небосвод голубой...
Я и так очень много с собою беру:
Я любовь забираю с собой.

4.ĐÃ ĐẾN LÚC ANH LÊN ĐƯỜNG

Em thân yêu, đến lúc anh lên đường
Anh không thể mang theo mình tài sản.
Đành bỏ lại những ngọn gió mùa xuân
Và tiếng hót của bầy chim mỗi sáng.

Gửi lại em hào quang của ánh trăng
Và bài hát từ xa xăm của sóng
Những bông hoa trong rừng Tlyarotin
Và dòng Côi-xu vội vàng hướng biển.

Và cao nguyên nép mình sau vách đá
Với vết tích vì bão tố mưa giông
Như dấu vết của những đêm mất ngủ
Và nước mắt trên má những mẹ hiền.

Anh không thể mang theo dòng Sulak.
Ở nơi kia anh không biết giữ gìn
Không tia nắng trên vai em ấm áp
Không cỏ hoa cao đến tận vai em.

Anh không mang những gì có từ xưa
Những thứ nuôi tâm hồn anh lớn đó
Những con đường đồi quấn như dây đai
Thơm mùi cỏ khô trong mùa cắt cỏ.

Anh để lại cho em mưa và nắng
Những con sếu trắng và bầu trời xanh… 
Nhưng mà anh mang đi theo nhiều lắm:
Anh mang tình yêu son sắt theo mình.



Đàn sếu - Журавли


3.Журавли

Мне кажется порою, что солдаты,
С кровавых не пришедшие полей,
Не в землю эту полегли когда-то,
А превратились в белых журавлей.

Они до сей поры с времен тех дальних
Летят и подают нам голоса.
Не потому ль так часто и печально
Мы замолкаем, глядя в небеса?

Сегодня, предвечернею порою,
Я вижу, как в тумане журавли
Летят своим определенным строем,
Как по полям людьми они брели.

Они летят, свершают путь свой длинный
И выкликают чьи-то имена.
Не потому ли с кличем журавлиным
От века речь аварская сходна?

Летит, летит по небу клин усталый -
Летит в тумане на исходе дня,
И в том строю есть промежуток малый -
Быть может, это место для меня!

Настанет день, и с журавлиной стаей
Я поплыву в такой же сизой мгле,
Из-под небес по-птичьи окликая
Всех вас, кого оставил на земле.

3.ĐÀN SẾU

Tôi cứ ngỡ biết bao người lính trẻ
Từ chiến trường xưa đẫm máu không về
Không phải họ nằm yên trong đất mẹ
Mà hóa thành sếu trắng giữa trời kia.

Sếu vẫn bay như thế tự ngày xưa
Bay đến bây giờ, và cất tiếng gọi.
Có phải thế mà ta thường buồn bã
Rồi lặng im, ngó vào giữa trời xa?

Và hôm nay đây, trong buổi chiều tà
Tôi nhìn thấy trong màn sương đàn sếu
Sải cánh bay theo đội hình chiến đấu
Như ngày nào giàn trận giữa đồng xa.

Sếu vẫn bay trên những chặng đường xa
Và cất tiếng gọi những tên ai đấy
Vì thế chăng mà tiếng kêu đàn sếu
Tự bao đời giống với tiếng Ava?

Đội hình bay mệt mỏi giữa bầu trời
Trong màn sương, buổi hoàng hôn ráng đỏ
Trong đội hình kia hãy còn khoảng nhỏ
Có thể là đấy chỗ để dành tôi!

Rồi sẽ đến một ngày, tôi sẽ bơi
Cùng đàn sếu trong màn sương như vậy
Bằng giọng sếu, giữa trời cất tiếng gọi
Tất cả những ai còn sống trên đời.




Bài ca - Песня


2.Песня

Исчезли солнечные дни,
И птицы улетели,
И вот одни проводим мы
Неделю за неделей.

Вдвоем с тобой, вдвоем с тобой
Остались ты да я...
Любимая, любимая,
Бесценная моя!

На косы вновь твои смотрю,
Не налюбуюсь за день...
Птиц улетевших белый пух
Пристал к отдельным прядям...

Пусть у меня на волосах
Лежит, не тая, снег...
Но ты, моя бесценная,
Как прежде, лучше всех.

Все краски вешние неся,
Вернутся снова птицы.
Но цвет волос, но цвет волос
С весной не возвратится.

И солнцу улыбнемся мы,
Печали не тая ..
Любимая, любимая,
Бесценная моя.

2.BÀI CA

Những ngày nắng không còn
Chim bay về phía biển
Chỉ còn em và anh
Nối đuôi nhau ngày tháng. 

Anh và em, hai người
Chỉ hai ta còn lại
Em yêu quí nhất đời
Anh yêu em nhường ấy!

Anh nhìn mái tóc em
Như chưa từng được ngắm..
Lông tơ trắng của chim
Vào tóc đen đã bám… 

Dù trên mái tóc anh
Tuyết nằm, không tan chảy..
Nhưng em yêu của anh
Đẹp nhất, như ngày ấy. 

Màu sắc của mùa xuân
Và đàn chim trở lại.
Nhưng màu của tóc mình
Cùng xuân không quay lại. 

Ta cười với mặt trời
Và nổi đau còn lại..
Em yêu quí nhất đời
Anh yêu em nhường ấy.



THƠ TUYỂN - Tôi yêu một trăm cô gái


1.Я влюблен в сто девушек

Я в сотню девушек влюблен,
Они везде, повсюду,
Они и явь, они и сон,
Я век их помнить буду.
Я помню давнюю весну:
Мальчишка босоногий,
Я встретил девочку одну
С кувшином на дороге.
Казалось, девочка была
Совсем, как тот кувшин, мала.
Вода была холодной в нем –
Я знал наверняка, –
Но обожгла меня огнем
Вода из родника.
Таил насмешку быстрый взор…
Ее люблю я до сих пор.

А позже – в стужу и весной
У сизых волн каспийских
Я брел за девушкой одной,
Не подходя к ней близко.
Ходил за ней я как во сне,
По улицам кружа,
А чтоб увидеть тень в окне
Второго этажа,
Влезал я на высокий клен...
Я до сих пор в нее влюблен.

Не позабыть, пока живу,
Мне девушки одной,
Что как-то ехала в Москву
В одном купе со мной.
Спасибо, дорогой кассир,
Что дал места нам рядом,
Что с ней в одно окно на мир
Одним смотрели взглядом.
Так, рядом с ней, вдвоем, без слов
Всю жизнь я ехать был готов.

Мне злая девушка одна
И до сих пор мила,
Что, раздражения полна,
Стихи мои рвала.

Люблю я взгляд веселых глаз
Одной девчонки милой,
Что в восхищенье столько раз
Стихи мои хвалила.

Я в злую девушку влюблен,
В простую девушку влюблен,
И в очень строгую влюблен,
И в недотрогу я влюблен,
И в равнодушную влюблен,
И в девушку смешливую,
И я в послушную влюблен,
Влюблен я и в строптивую.
Я в каждом городе влюблен,
На всех путях-маршрутах,
В студенток разных я влюблен
Всех курсов института.
Своей любовью окрылен,
Их всех зову я «милой», –
Я в сотню девушек влюблен
С одной и той же силой.

Но ты мрачнеешь – неспроста!
Ты даже с места встала.
«Ах значит, я одна из ста?
Спасибо, я не знала!..»

Я отвечаю: нет, постой,
Мой друг, все сто в тебе одной!
Сто разных девушек в тебе,
А ты одна в моей судьбе!..

Когда бежал я у села
Мальчишкой босоногим,
Ведь это ты с кувшином шла
По узенькой дороге.

А в городе, средь суеты,
Где Каспия прибой,
Не замечала разве ты,
Как шел я за тобой?
Потом – ты помнишь стук колес
И поезд, что в Москву нас вез?
Сто девушек – то ты сама,
Ты их вместила всех,
В тебе – и лето и зима,
В тебе – печаль и смех.
Порой ты равнодушная,
Бываешь злой – не скрою,
Порою ты послушная
И нежная порою...
Куда бы ни летела ты,
Я за тобой летел,
Чего б ни захотела ты,
Добыть тебе хотел.
С тобою шли мы по горам,
Где туч стада лежали,
И к самым разным городам
Мы вместе подъезжали.

Я в сотню девушек влюблен
С одной и той же силой...
Тебя, любовью окрылен,
Сто раз зову я «милой».

В тебе сто девушек любя,
В сто раз сильней люблю тебя!

1.TÔI YÊU MỘT TRĂM CÔ GÁI


Tôi yêu một trăm cô gái
Họ ở khắp mọi chốn, mọi nơi
Họ ở cả trong mộng, ngoài đời
Tôi sẽ nhớ người ta mãi mãi.
Tôi nhớ về một ngày xuân:
Ngày còn là cậu bé chân trần
Tôi gặp một cô gái trẻ
Ôm chiếc bình đi trên đường.
Khi đó tôi ngỡ rằng cô bé
Bé bỏng như chiếc bình.
Nước lạnh trong chiếc bình – 
Tôi biết chắc như thế –
Nhưng dòng nước từ nguồn
Đã đốt tôi lên bằng ngọn lửa.
Giấu ánh mắt nhìn thật nhanh…
Đến bây giờ tôi vẫn yêu cô ấy.

Sau đó – ngày xuân cũng như băng giá
Bên những con sóng của biển Ca-xpiên
Tôi thơ thẩn theo một nàng
Không bước đến gần
Tôi bước đi như là trong giấc ngủ
Lượn vòng trên đường phố
Để được thấy chiếc bóng bên cửa sổ
Từ tầng hai
Rồi trèo lên một cây phong rất cao…
Tôi yêu cô ta kể từ ngày đó.

Một ngày mà tôi còn thở
Thì không quên một cô nàng
Khi đi tàu lên Moskva một lần
Hai đứa cùng chung một buồng
Xin cám ơn người bán vé
Đã bán cho hai chỗ một buồng
Để tôi với nàng qua ô cửa sổ
Nhìn cuộc đời bằng một ánh nhìn chung.
Chúng tôi ngồi bên nhau lặng im
Tôi muốn suốt đời được đi tàu như thế.

Với tôi một cô gái ác
Đến giờ tôi vẫn thấy yêu
Đấy là cái lần nàng bực tức
Đã đem xé nát thơ tôi.

Tôi yêu cái nhìn của ánh mắt vui
Của một cô gái đẹp
Biết bao nhiêu lần thán phục
Đã khen thơ tôi hết lời.

Tôi yêu một cô gái ác
Tôi yêu một cô bình thường
Và yêu một cô nghiêm khắc
Yêu một cô hay dỗi hờn
Yêu một cô rất dửng dưng
Yêu một cô cười thường xuyên
Tôi yêu một cô ngoan ngoãn
Tôi yêu một cô ngang bướng.
Tôi yêu ở khắp chốn thị thành
Trên khắp mọi nẻo đường
Tôi yêu mọi nữ sinh viên
Tất cả các năm ở trường đại học
Tôi luôn mở lòng mình
Gọi tất cả là “em yêu thương”
Tôi yêu một trăm cô gái
Và chỉ bằng một tình yêu như vậy.

Nhưng mặt em sa sầm xám xịt
Em không thèm đứng dậy, cất lời:
“Nghĩa là em trong số một trăm người?
Cám ơn anh, thế mà em không biết!..”

Tôi trả lời: khoan em ơi, đừng vội
Em thân yêu, trong em cả một trăm
Trong người em có một trăm cô gái
Còn em một mình trong số phận của anh!..

Cái ngày anh còn bé
Chạy chân đất trong làng
Chẳng phải em đã ôm chiếc bình
Đi trên con đường nhỏ.

Còn khi giữa ồn ào đường phố
Bên sóng biển Ca-xpiên
Chẳng lẽ em đã không để ý nhìn
Khi anh đi theo sau em như thế?
Sau đó – tiếng bánh xe, em còn nhớ
Của con tàu chở ta đến Moskva?
Một trăm cô gái – chính là em đó mà
Trong em có một trăm cô gái
Trong em – có mùa đông, mùa hè
Trong em – cả niềm vui, nỗi khổ
Cũng có khi em dửng dưng
Có khi ác – anh không hề giấu giếm
Lại có khi em ngoan ngoãn
Và có khi em thật dịu dàng…
Dù em có đi về nơi đâu
Thì anh lại vẫn theo sau
Khi em có điều gì ao ước
Thì anh phải tìm cho bằng được
Ta từng đi trên những ngọn đồi
Nơi còn đọng những đám mây
Và anh với em vẫn hai người
Từng đi đến biết bao thành phố.

Anh yêu cả một trăm cô gái
Vẫn bằng một tình yêu như vậy..
Anh mở cõi lòng mình cho em
Một trăm lần anh gọi “em yêu thương”.

Anh yêu một trăm cô gái trong em
Nghĩa là yêu em mạnh gấp một trăm lần!


TIỂU SỬ Rasul Gamzatov


Rasul Gamzatovich Gamzatov (tiếng Nga: Расу́л Гамза́тович Гамза́тов; tiếng Avar: Расул Xiамзатов, 8 tháng 9 năm 1923 – 3 tháng 11 năm 2003) – nhà thơ nổi tiếng thế giới của dân tộc Avar, thi hào dân tộc Dagestan, anh hùng lao động Liên Xô (1974), giải thưởng Lenin (1963), giải thưởng Stalin (1959).
******
Tiểu sử:
Rasul Gamzatov sinh tại làng Tsada, huyện Khunzakhsky, Dagestan. Bố là nhà thơ Gamzat Tsadasa (1877 – 1951). Từ nhỏ đã được bố đọc thơ và kể cho nghe nhiều huyền thoại của núi đồi làm cho Rasul say đắm. Học phổ thông ở Dagestan, tốt nghiệp trường trung cấp sư phạm Avar năm 1939 và làm giáo viên đến năm 1941, sau đó làm phó đạo diễn nhà hát, nhà báo ở các báo và đài địa phương. Từ năm 1945 đến 1950 học trường viết văn Maxim Gorky ở Moskva. Sau khi tốt nghiệp, Rasul Gamzatov được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà văn của Dagestan năm 1951, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào tháng 11/2003.
******
Rasul Gamzatov được bầu làm đại biểu Xô Viết tối cao rồi phó chủ tịch Xô Viết tối cao nước cộng hòa Dagestan. Sau đó được bầu làm đại biểu Xô Viết tối cao và thành viên Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô. Trong thời gian hàng chục năm liền ông là đại biểu của các kỳ Đại hôi Hội nhà văn Dagestan, Nga và Liên Xô, là thành viên của Hội đoàn kết các nhà văn Á-Phi, thành viên Hội đồng Giải thưởng Lenin và Giải thưởng Nhà nước Liên Xô, thành viên Hội đồng bảo vệ hòa bình thế giới, Phó chủ tịch Hội đồng đoàn kết các dân tộc Á-Phi của Liên Xô. Thành viên Hội đồng biên tập của những tờ báo và tạp chí văn học nổi tiếng nhất của Liên Xô và Nga.

Vì những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực văn học, Rasul Gamzatov đã được trao nhiều danh hiệu và giải thưởng của Dagestan, Nga, Liên Xô và thế giới: nhà thơ Nhân dân của Dagestan, Anh hùng Lao động xã hội chủ nghĩa, người đoạt giải thưởng Lenin, giải thưởng Nhà nước Nga và Liên Xô, các giải thưởng quốc tế: “Nhà văn hay nhất thế kỷ XX”, giải “Lotus” của các nhà văn Á – Phi, các giải thưởng mang tên Javaharlal Nehru, Firdousi, Hristo Botev, Sholokhov, Lermontov, Fadeev, Batyray, Mahmud, S. Stalsky, G. Tsadasa.
******
Rasul Gamzatov bắt đầu làm thơ từ năm 1932 (lên chín tuổi) và bắt đầu in thơ từ năm 1937 ở báo “Người Bôn-sê-vích của núi đồi” (Большевик гор). Quyển thơ đầu tiên bằng tiếng Ava in năm 1943. Năm hai mươi tuổi ông đã trở thành Hội viên của Hội Nhà văn Liên Xô. Kể từ đó, bằng tiếng Avar và tiếng Nga, bằng nhiều ngôn ngữ của Dagestan, Kavkaz và toàn thế giới, hàng chục cuốn sách thơ, văn xuôi và các bài viết của ông đã được xuất bản. Ngoài sáng tác, Rasul Gamzatov cũng dịch thơ Pushkin, Lermontov, Shevchenko, Mayakovsky, Esenin và nhiều nhà thơ Nga khác, cũng như các nhà thơ Ả Rập ra tiếng Ava.

Rất nhiều bài thơ của ông được các nhạc sĩ phổ nhạc trở thành những bài hát nổi tiếng. Hàng chục quyển thơ, văn của ông được in bằng tiếng Ava, tiếng Nga và nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Thơ Rasul Gamzatov bằng tiếng Việt có các bản dịch của Thúy Toàn, Thái Bá Tân và Nguyễn Viết Thắng. Phần dịch ra tiếng Việt của chúng tôi gồm 621 bài thơ, trong đó: Thơ tuyển – 24 bài; Thơ sonnet – 50 bài; Thơ tám câu – 250 bài; Thơ bốn câu – 165 bài; Thơ trào phúng – 14 bài; Thơ khắc, thơ đề – 103 bài; Bút tích đề trong sách tặng người khác – 14 bài; Lời hay ý đẹp rút từ các tác phẩm văn xuôi và dịch Hai bài viết của Rasul Gamzatov.   
******
Toàn bộ sáng tạo của Rasul Gamzatov là một cuốn sách của trí tuệ và lòng dũng cảm, của tình yêu và nỗi đau, của lời nguyền rủa và lời nguyện cầu, của lòng tin và chân lý, của khoảnh khắc và thế kỷ. Rasul Gamzatov mãi mãi là một nhà nhân văn lớn. Thơ ông là tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu mặt đất này và cả thế giới, ông đấu tranh không khoan nhượng với cái ác, cái thấp hèn trên mặt đất này.
******
Rasul Gamzatov mất ngày 3 tháng 11 năm 2003 ở Moskva, mai táng tại nghĩa trang Hồi giáo Makhachkala, bên cạnh mộ vợ ông.

Tác phẩm chính:
*Tình yêu say đắm và thù hận trào dâng (Пламенная любовь и жгучая ненависть, 1943), tập thơ
*Đồi núi của ta (Наши горы, 1947), thơ
*Đất của tôi (Земля моя. Даггосиздат, 1948), thơ
*Những khúc hát của núi rừng (Песни гор. М., 1948), thơ
*Quê hương của người miền núi (Родина горца, 1950), tập thơ
*Năm sinh của tôi (Год моего рождения, 1950), tập Thơ và Trường ca
*Lời về người anh trai (Слово о старшем брате, 1952), tập thơ
*Trò chuyện với cha (Разговор с отцом, 1953), trường ca
*Mùa xuân Dagestan (Дагестанская весна, 1955), tập thơ
*Sơn nữ (Горянка, 1958), trường ca
*Lòng tôi ở Cao nguyên (В горах моё сердце, 1959), tập thơ
*Những ngôi sao xa (Высокие звёзды. Стихи и поэма, 1963), thơ và trường ca
*Chữ viết. Thơ tám câu. Thơ trào phúng. Thơ đề (Письмена. Восьмистишия, эпиграммы, надписи. М., 1963-1969), tập thơ
*Thơ tuyển 2 tập (Избранное в двух томах), 1964), thơ
*Thư viện thơ trữ tình chọn lọc (Библиотека избранной лирики, 1965), thơ
*Và sao cháy với sao (И звезда с звездою говорит, 1964), thơ
*Cô gái lai (Мулатка. Стихи, 1966), thơ  
*Ông nội tôi (Для детей: “Мой дедушка”, 1967), thơ cho trẻ em
*Dagestan của tôi (Мой Дагестан, 1968), truyện
*Sau đấy là gì? ( А что потом?, 1969), thơ
*Giờ thứ ba (Третий час, 1971), thơ
*Hãy gìn giữ bạn bè (Берегите друзей, 1972), thơ  
*Thơ sonnetонеты, 1973), thơ
*Đàn sếu (Журавли, 1975), thơ-bài hát
*Hãy gìn giữ mẹ (Берегите матерей, 1978), trường ca
*Thời gian và những con đường (Времена и дороги, 2004), trường ca
*Chúc thư: thơ tuyển (Завещание: Избранные стихотворения, 2009), thơ