Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 37-42



37
Бьется поток под скалою высокой,
Гордый, бесчувственный к рокоту вод.
Мне ль не понять состоянья потока,
Кто же мое состоянье поймет?

Бьется и стонет поток, но не может
Расшевелить равнодушных камней
Этой скалы, удивительно схожей
С каменносердной любимой моей.

37
Dòng nước đập vào vách đá cao dựng đứng
Rất kiêu căng, vô cảm tiếng rì rào.
Chẳng lẽ tôi không hiểu ra tình trạng
Dòng nước thì người hiểu được tôi sao?

Dòng nước chảy rì rào nhưng không thể
Làm hòn đá kia hờ hững vui theo
Những hòn đá này sao mà giống thế
Giống con tim hoá đá của người yêu.


38
Дагестан, все, что люди мне дали,
Я по чести с тобой разделю,
Я свои ордена и медали
На вершины твои приколю.

Посвящу тебе звонкие гимны
И слова, превращенные в стих,
Только бурку лесов подари мне
И папаху вершин снеговых!

38
Tất cả những gì mà người ta tặng tôi
Đaghestan, tôi chia cùng Người đấy
Tôi đem hết những huân chương, mề đay
Lên đỉnh cao của Người tôi găm lại.

Tôi dâng Người tất cả những bài ca
Và những lời hoá thân vào thơ đó
Chỉ xin Người tặng tôi áo buốc-ca
Và chiếc mũ của đỉnh cao trắng xoá.




39
Эй, юноша, видишь, как старец седой
Шагает по людному городу?
Ты, юноша, видишь, как чистой рукой
Он трогает белую бороду?

Ты молод еще, ты джигит и жених,
Но время нам выбелит бороду.
Смотри же, седин не испачкай своих
Руками, нечистыми смолоду.

39
Chàng trai trẻ, hãy nhìn người tóc bạc
Rảo bước đi trên thành phố người đông
Bằng bàn tay sạch sẽ, chàng thấy không
Chòm râu bạc của mình ông đang vuốt?

Chàng còn trẻ trung, chàng là chàng rể
Nhưng thời gian làm bạc mái tóc đen.
Chớ làm bẩn mái tóc bạc của mình
Bằng bàn tay không sạch từ khi trẻ.


40
Отличны друг от друга города,
И люди, и дома, и монументы.
Похожи только всюду и всегда
Поэты, ребятишки и студенты!

Не потому ль всегда мне так близки,
В каком бы ни был уголке планеты.
Сограждане мои и земляки,
Студенты, ребятишки и поэты!

40
Nét khác biệt ở các thành phố lớn
Những con người, đài kỷ niệm, những ngôi nhà.
Còn giống nhau mọi thời gian, mọi chốn
Là những sinh viên, con trẻ các nhà thơ.

Có phải thế mà tôi luôn gần gũi
Cho dù tôi đi khắp chốn, mọi miền
Đồng bào của tôi – những đồng hương yêu quí
Và những nhà thơ, con trẻ, sinh viên.




41
Всезнающих людей на свете нет,
Есть только те, кто мнит себя всезнающим.
Порой мне страшен их авторитет,
Взгляд осуждающий и взгляд карающий.

Всего не знал ни Пушкин, ни Сократ,
Все знает в целом мир, большой и многолюдный,
Но судят мир порою те, что мнят
Себя носителями истин абсолютных.

41
Trên đời này chẳng có ai biết hết
Chỉ có những người lầm tưởng thế mà thôi.
Tôi thấy sợ cho những ai quyền lực
Cái nhìn luôn luôn đoán xét con người.

Biết hết cả, chẳng Puskin, không Xôcrát
Biết làm sao đời rộng lớn, đông người
Nhưng người ta đem cuộc đời đoán xét
Nhầm tưởng mình là chân lý đấy thôi.



42
Опять дорога, мы всегда в пути.
Я знаю, сколько прошагал и прожил.
А сколько предстоит еще пройти,
Не знаешь ты, и я не знаю тоже.

Опять дорога, вечно мы в пути.
Я вижу цель. Она всего дороже.
А суждено ли до нее дойти,
Не знаешь ты. и я не знаю тоже.

42
Lại lên đường, ta luôn trên đường vậy
Anh biết chặng đường đã sống, đã đi
Nhưng chặng đường trước mắt mà ta phải
Thì cả hai ta đều chẳng biết gì.

Lại lên đường, muôn năm trên đường vậy
Thấy mục đích. Mục đích quí nhất đời
Nhưng liệu trời có cho đi đến đấy
Em không biết gì, anh cũng thế thôi.



THƠ TÁM CÂU - 31-36



31
Прекрасны в книге жизни все страницы,
Все в этой книге здраво и умно.
Чтоб вновь родиться колосом пшеницы,
Ложится в землю мертвое зерно.

Когда весенний дождь прольется где-то,
В лугах взойдет шумящая трава;
Когда слеза блеснет в глазах поэта,
Родятся настоящие слова.

31
Trong sách đời tất cả trang đều tuyệt
Tất cả trong sách này sáng suốt, thông minh.
Để lần nữa sinh ra bông lúa mạch
Gieo vào đất những hạt giống nằm yên.

Khi cơn mưa mùa xuân rơi đâu đó
Thì trên đồng xào xạc cỏ và hoa
Khi nước mắt rơi từ đôi mắt thi sĩ
Thì những lời chân chính được sinh ra.


32
Здесь у нас такие горы синие
И такие золотые нивы!
Если б все края их цвет восприняли,
Стала бы земля еще красивей.

Есть заветы новые и дедовы
У людей земли моей весенней.
Если б мир заветам этим следовал,
Стал бы он гораздо совершенней.

32
Quê hương tôi có những cánh đồng vàng
Và quê tôi có núi đồi xanh thắm!
Giá mà khắp nơi người ta đều tiếp nhận
Những màu sắc này, trái đất sẽ đẹp hơn.

Con người sống trên trái đất mùa xuân
Có di chúc bây giờ và của ông cha để lại.
Giá người ta làm theo những lời di chúc ấy
Thì thế giới này sẽ tuyệt vời hơn.




33
От отчих мест теперь мой дом далеко;
Переношу я плохо высоту,
И все ж от вас не слышал я упрека,
Я знаю, горцы, вашу доброту.

И знаю, слово доброе найдется
Для брата своего на том пути,
В тот час, когда вам на плечах придется
Меня в последний путь мой понести!

33
Nhà của tôi giờ cách xa nơi bố
Tôi nhọc nhằn với cái cảnh núi đồi
Nhưng dù sao tôi nghe lời chửi rủa
Thì hiểu ra lòng tốt của mọi người.

Tôi biết rằng lời tốt luôn tìm thấy
Cho người anh em trên một con đường
Khi trên vai mình mọi người đành phải
Gánh tôi đi vào con đường cuối cùng!


34
Немало песен сочинил поэт
О нашем крае, о горах высоких,
И горный край о нем сто двадцать лет
Поет на языке своих потомков.

Туман веков, как сумеречный дым,
Плывет по небу, но нерасторжимы
Певец Кавказа, павший молодым,
И сам Кавказ с вершинами седыми.

34
Một nhà thơ viết nhiều những bài thơ
Về quê hương, núi đồi cao chót vót
Một trăm hai mươi năm núi đồi về nhà thơ
Bằng giọng của con cháu mình vẫn hát.

Sương thế kỷ như màn khói hoàng hôn
Bay giữa trời nhưng không hề phân tán
Người ca sĩ Kapkaz chết tuổi thanh xuân
Kapkaz tự mình với đỉnh cao bạc trắng.




35
Золотая рыбка, где угодно
Плавай: я тебя не залучу.
Славу клянчить вроде неудобно,
Серебра и злата не хочу.

А назад мне молодость былую
Не вернешь ты, не зажжешь меня
Первой встречей, первым поцелуем,
Первой песней ночью у огня.

35
Con cá vàng ơi, ngươi ở đâu tuỳ ý
Hãy bơi đi, ta chẳng gọi ngươi đâu
Giờ thanh danh không tiện điều năn nỉ
Còn bạc vàng ta lại chẳng cần đâu.

Thời tuổi trẻ của ta ngươi không thể
Trả lại ta, ngươi cũng chẳng đốt lên
Nụ hôn đầu tiên, lần đầu gặp gỡ
Bài hát đầu bên ngọn lửa trong đêm.



36
Что с горцем стряслось: высоты я боюсь.
Зачем я взошел на вершину за тучи?
Мне кажется, не удержусь я, сорвусь,
Канат оборвется, и грохнусь я с кручи.

Поэт, я стою на вершине своей,
И трудно, и страшно, а мне все неймется.
Мне с каждою песней дышать тяжелей,
И кажется - строчка вот-вот оборвется.

36
Có điều xảy ra: đỉnh cao tôi sợ lắm.
Tôi lên đỉnh cao sau mây để làm gì?
Có lẽ không giữ được, tôi ngã xuống
Từ dốc cao khi đứt sợi dây kia.

Tôi đang đứng trên đỉnh cao của mình
Và thấy khủng khiếp, nhọc nhằn ghê gớm.
Thêm mỗi bài thơ càng khó thở hơn
Và ngỡ như từng dòng đang đứt quãng.



THƠ TÁM CÂU - 25-30



25
Нового, сверхмощного оружья
Не изобретайте для людей.
Стародавнее оружье - дружба
Вложена в ножны души моей.

Нам отцы и деды завешали
Золото оружья своего,
Чтобы мы сломать его не дали,
Чтоб не дали затупить его.

25
Những vũ khí mới cực kỳ hiện đại
Đừng chế tạo ra chống lại con người.
Vũ khí tự ngàn xưa – tình hữu ái
Hãy đặt vào trong bao vỏ cho tôi.

Lời di chúc của cha ông để lại
Cho chúng ta là thứ vũ khí vàng
Để chúng ta không cho ai bẻ gãy
Để chúng ta không cho họ làm cùn.



26
Шумит листвой иной зеленый сад
И шепчет: мол, цвету я всем на зависть!
А в небе тучи, предвещая град,
Глядят, смеясь, на молодую завязь.

Иные люди с легкостью твердят,
Как счастливо они живут на свете.
А счастье хмурит свой недобрый взгляд:
«Какие вы глупцы, какие дети!»

26
Trong vườn xanh những chiếc lá reo vang
Rồi thì thầm: ta ghen cùng ánh sáng!
Còn trên trời những đám mây trĩu nặng
Ngó xuống cười những chiếc lá còn xanh.

Còn một số người dễ dàng quả quyết
Rằng họ hạnh phúc sung sướng trên đời.
Còn hạnh phúc thì lại chau lông mày:
“Ôi các con thật vô cùng dại dột!”




27
«Дайте мне отцовского коня,
Я скакать умею, слава богу!»
Я вскочил в седло, но конь меня
Сбросил, и упал я на дорогу.

«Тише, люди. Я играть начну,
Дайте мне пандур отца хваленый...»
Только тронул пальцами струну -
И струна оборвалась со звоном.

27
“Hãy đưa tôi con ngựa của cha tôi
May mắn thay là tôi còn biết nhảy!”
Tôi nhảy lên và con ngựa quẳng tôi
Ngã lăn quay bên vệ đường lúc ấy.

“Mọi người nghe. Tôi bắt đầu chơi đây
Trao cho tôi cây đàn cha ca tụng...”
Chỉ vừa mới động ngón tay vào dây
Thì dây đàn đứt ra cùng với tiếng.



28
Не вечным мне кажется наш небосвод.
Он шатким и ветхим порою мне кажется.
Порою мне кажется: небо вот-вот
Падет мне на голову всей своей тяжестью.

Но высятся горы, и я защищен
Вершинами горными, горными кручами,
Они подпирают собой небосклон,
Как старую кровлю опоры могучие.

28
Tôi cứ ngỡ bầu trời không muôn thuở
Mà nát nhàu và ọp ẹp, rung rinh
Giờ tôi ngỡ rằng bầu trời sắp sửa
Đổ xuống đầu tôi với sức nặng của mình.

Nhưng những ngọn núi nhô cao bảo vệ
Bằng những đỉnh cao bằng những dốc cao
Chúng sừng sững vươn mình lên chống đỡ
Như mái nhà xưa có những cột to cao.



29
«Где же ты, счастье, где светлый твой лик?»
«Я на вершинах, куда не всходил ты!»
«Где же ты, счастье? Вершин я достиг».
«В реках, в которых покуда не плыл ты!»

«Где ты, я тысячу рек переплыл?»
«В песнях, которые завтра ты сложишь!»
«Где ты, я песню тебе посвятил?»
«Я впереди! Догони, если можешь!»

29
“Hạnh phúc ơi, ở đâu gương mặt ngươi kiều diễm?”
“Trên đồi cao, người chưa tới bao giờ!”
“Ngươi ở đâu? Đồi cao tôi đã đến”.
“Ở trên sông, nơi người chẳng đi qua!”

“Ngươi ở đâu? Nghìn con sông đã bơi”.
“Trong bài hát, ngày mai người sẽ nghĩ!”
“Ngươi ở đâu? Bài hát viết xong rồi”.
“Ở phía trước! Hãy theo, nếu còn có thể!”



30
На полях, где зреет урожай,
Мы скупую землю орошаем.
На полях созреет урожай -
Мы хлеба под корень подрезаем.

Но просторы этих же полей
Нашей кровью орошает горе.
И самих жнецов, и плугарей,
Как хлеба, срезает нас под корень.

30
Trên những cánh đồng lúa đang tốt tươi
Ta tưới nước cho mặt đất khô khốc.
Trên những cánh đồng lúa đã chín rồi –
Những ruộng lúa mì ta cắt tận gốc.

Nhưng khoảng rộng của những cánh đồng này
Tưới bằng máu của ta bao khó nhọc
Và chính những người thợ gặt, thợ cày
Như lúa mì đang bị cắt tận gốc.



THƠ TÁM CÂU - 19-24



19
Старый друг мой, отнятый войной,
Голос твой я слышу все равно,
А иной живой идет за мной,
Хоть и умер для меня давно.

Верный друг мой, отнятый войной,
Мне тепло от твоего огня,
А иной живой сидит со мной
И морозом обдает меня.

19
Bạn của tôi chiến tranh cướp mất rồi
Nhưng mà tôi vẫn còn nghe thấy giọng
Còn người đang sống đi sau lưng tôi
Đối với tôi đã chết từ lâu lắm.

Bạn của tôi chiến tranh cướp mất rồi
Lửa của bạn giờ tôi còn sưởi ấm
Nhưng người khác sống đang ngồi bên tôi
Tôi lại cảm thấy vô cùng giá lạnh.


20
Напишите на своем кинжале
Имена детей, чтоб каждый раз
Вспыльчивые люди вспоминали
То, что забывается подчас.

На ружейном вырежьте прикладе
Лица матерей, чтоб каждый раз
С осужденьем иль мольбой во взгляде
Матери смотрели бы на вас.

20
Hãy khắc trên con dao của mình
Những cái tên trẻ nhỏ
Để mỗi lần cầm dao, anh sẽ nhớ
Một cái điều khi đó anh quên.

Hãy khắc lên khẩu súng của mình
Khuôn mặt mẹ để mỗi khi giơ súng
Thì với lời van xin hay phê phán
Trong ánh mắt người mẹ nhìn anh.




21
Волна морская к берегу стремится,
Ее выносит на песок прибой.
И вот уже недолгая граница
Ложится между морем и волной.

Но по законам берега и моря,
Обратно к морю катится она.
О мой народ, и в радости, и в горе
Ты - это море, я - твоя волна.

21
Hướng về bờ từng đợt sóng khát khao
Biển đẩy sóng lên cát vàng, lên đá.
Và luôn luôn một vạch nước không lâu
Nằm trải ra giữa sóng và biển cả.

Nhưng theo qui luật của bờ và biển
Vạch nước kia lại về biển mà thôi.
Nhân dân ơi, trong khổ đau, sung sướng
Biển – nhân dân, tôi – ngọn sóng của người.



22
«Ты мне ответь, веселый человек,
Что так печален твой напев искусный?»
«И у того, кто весел целый век,
Бывает сын задумчивый и грустный!»

«Ты объясни мне, грустный человек,
Откуда лад твоих веселых песен?»
«И у того, кто грустен целый век,
Бывает сын и радостен, и весел!»

22
“Trả lời tôi, hỡi con người vui vẻ
Bài hát của anh sao lắm đau buồn?”
“Ở con người mà vui suốt thế kỷ
Thường có đứa con trầm lặng, sầu thương!”

“Thế tại sao, hỡi con người buồn bã
Ngươi lấy đâu ra những bài thơ vui?”
“Ở con người mà buồn suốt thế kỷ
Thường có đứa con mừng rỡ, vui tươi!”




23
Я вновь в краю, где дует горный ветер,
И я не узнаю родного края:
Язык отцов не понимают дети.
Язык мой отживает, умирает.

Ужели мы на языке аварцев
Не будем думать, песни петь и спорить...
Что делать - реки в море впасть стремятся,
Хоть сами знают: их поглотит море.

23
Tôi lại về nơi ngọn gió đồi đang thổi
Tôi không còn nhận diện được quê hương
Con trẻ bây giờ không hiểu tiếng cha ông
Tiếng của tôi chết dần, đang hấp hối.

Chẳng lẽ chúng ta bằng tiếng Avar
Không còn nghĩ suy, cãi nhau và hát
Biết làm sao – sông tìm biển đổ ra
Dù biết rằng: bị biển kia nuốt mất.



24
Я редко радуюсь своим победам,
Мне кажется - в стихах чего-то нет.
Мне кажется - идет за мною следом
Уже рожденный истинный поэт.

Пусть удивит он мир созвучьем новым,
Которого я, может, не пойму,
И пусть меня однажды добрым словом
Помянет за любовь мою к нему.

24
Thắng lợi của tôi, tôi ít khi mừng
Tôi ngỡ rằng – trong thơ còn chưa đủ.
Tôi ngỡ rằng – dấu vết đi sau lưng
Đã sinh ra một nhà thơ thực sự.

Mặc nhà thơ làm cuộc đời kinh ngạc
Bằng giọng ngân vang tôi chẳng hiểu ra
Mặc cho một lần bằng lời tốt đẹp
Nhắc đến tình tôi đối với thơ ca.