Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 43-48




43
Я не видел каминов, где вечно огонь,
Огонь горит и не гаснет.
А в груди у меня - приложи ладонь -
Огонь горит и не гаснет.

Где мерцают огни и ночи, и дни,
Не бывает такого селенья.
А в глазах у меня не гаснут огни
Моего родного селенья.

43
Tôi không thấy bếp luôn luôn
Chỉ cháy mà không tắt.
Còn trong ngực tôi – đặt tay lên
Thấy lửa cháy mà không tắt.

Ngọn lửa cháy suốt đêm ngày
Không có bản làng như vậy.
Nhưng trong đôi mắt tôi đây
Ngọn lửa làng tôi vẫn cháy.



44
Друг ушел от моего порога,
Наяву ушел, пришел во сне,
И травою заросла дорога,
По которой радость шла ко мне.

Друг ушел. Что мне хула и слава?
Как мне жить и как мне песни петь?
Нет теперь руки со мною правой,
Чтобы в горе слезы утереть.

44
Em xa rồi, chẳng còn em trước cửa
Xa trong đời, em chỉ đến trong mơ.
Trên con đường đã mọc đầy hoa cỏ
Theo đường này vui đã đến cùng ta.

Em xa rồi. Khen chê làm chi nữa?
Sống làm gì, thơ viết để cho ai?
Giờ chẳng còn bên ta bàn tay nhỏ
Để giơ lên gạt nước mắt đắng cay.




45
Мы все умрем, людей бессмертных нет,
И это все известно и не ново.
Но мы живем, чтобы оставить след:
Дом иль тропинку, дерево иль слово.

Не все пересыхают ручейки,
Не все напевы время уничтожит,
И ручейки умножат мощь реки,
И нашу славу песня приумножит.

45
Ta đều chết, chẳng có ai sống mãi
Đấy là điều ai cũng biết từ xưa
Nhưng ta sống dấu vết cần để lại
Ngôi nhà, con đường, cây gỗ, bài thơ.

Vì chẳng phải ngọn suối nào cũng cạn
Bài hát nào cũng chết bởi thời gian.
Những dòng suối hợp lại thành sông lớn
Và bài ca nhân lên những vinh quang.



46
Ребенок плачет, мать над ним склоняется:
«Что у тебя, мой маленький, болит?»
Но глупый мальчик плачет, надрывается,
Он, бессловесный, что ей объяснит?

Ко мне, в мой дом, друзья приходят милые
И спрашивают: «Что с тобой опять?»
Но, как больной ребенок, им не в силах я
Промолвить слово или знак подать.

46
Khi con trẻ khóc bà mẹ cúi đầu:
“Con bị làm sao, con yêu của mẹ?”
Nhưng đứa bé đâu hiểu gì, khóc ré
Chưa có lời biết giải thích làm sao.

Bạn bè của tôi đi đến nhà tôi
Họ hỏi tôi: “Lại có điều gì thế?”
Nhưng mà tôi cũng giống như con trẻ
Không còn sức để mà nói lên lời.



47
В певчих птиц, а в соловьев тем более
Камня не бросайте никогда.
Девушки, своим любимым боли
Вы не причиняйте никогда!

Ты, моя любовь, со мной сурова,
Ты, случайно слово оброня,
Не заметила, что это слово,
Точно камень, ранило меня.

47
Loài chim hót, nhất là chim hoạ mi
Xin nhớ cho đừng bao giờ ném đá
Các cô gái hãy nhớ đừng bao giờ
Người mình yêu, đừng để người đau nhé.

Người yêu tôi với tôi sao dữ dội
Em vô tình buông lời nói ngăn rào
Em đâu biết dù chỉ bằng lời nói
Nhưng khác gì em ném đá tôi đau.



48
Были когда-то в далекие дни
Пять друзей неразлучных со мною.
Пришла война, и ушли они,
С войны возвратились двое.

Один теперь далеко живет,
Уехал, давно женился.
А с тем, что рядом, мы в ссоре год,
Очень друг мой переменился.

48
Cái ngày ấy, giờ đã xa xôi lắm
Bạn rất thân của tôi có năm người
Ngày chiến tranh họ đều ra mặt trận
Ngày trở về chỉ còn có hai thôi.

Một người bạn bây giờ rất xa xăm
Bạn đi xa và từ lâu cưới vợ
Người ở gần xích mích suốt cả năm
Bạn của tôi bây giờ thay đổi quá.


THƠ TÁM CÂU - 37-42



37
Бьется поток под скалою высокой,
Гордый, бесчувственный к рокоту вод.
Мне ль не понять состоянья потока,
Кто же мое состоянье поймет?

Бьется и стонет поток, но не может
Расшевелить равнодушных камней
Этой скалы, удивительно схожей
С каменносердной любимой моей.

37
Dòng nước đập vào vách đá cao dựng đứng
Rất kiêu căng, vô cảm tiếng rì rào.
Chẳng lẽ tôi không hiểu ra tình trạng
Dòng nước thì người hiểu được tôi sao?

Dòng nước chảy rì rào nhưng không thể
Làm hòn đá kia hờ hững vui theo
Những hòn đá này sao mà giống thế
Giống con tim hoá đá của người yêu.


38
Дагестан, все, что люди мне дали,
Я по чести с тобой разделю,
Я свои ордена и медали
На вершины твои приколю.

Посвящу тебе звонкие гимны
И слова, превращенные в стих,
Только бурку лесов подари мне
И папаху вершин снеговых!

38
Tất cả những gì mà người ta tặng tôi
Đaghestan, tôi chia cùng Người đấy
Tôi đem hết những huân chương, mề đay
Lên đỉnh cao của Người tôi găm lại.

Tôi dâng Người tất cả những bài ca
Và những lời hoá thân vào thơ đó
Chỉ xin Người tặng tôi áo buốc-ca
Và chiếc mũ của đỉnh cao trắng xoá.




39
Эй, юноша, видишь, как старец седой
Шагает по людному городу?
Ты, юноша, видишь, как чистой рукой
Он трогает белую бороду?

Ты молод еще, ты джигит и жених,
Но время нам выбелит бороду.
Смотри же, седин не испачкай своих
Руками, нечистыми смолоду.

39
Chàng trai trẻ, hãy nhìn người tóc bạc
Rảo bước đi trên thành phố người đông
Bằng bàn tay sạch sẽ, chàng thấy không
Chòm râu bạc của mình ông đang vuốt?

Chàng còn trẻ trung, chàng là chàng rể
Nhưng thời gian làm bạc mái tóc đen.
Chớ làm bẩn mái tóc bạc của mình
Bằng bàn tay không sạch từ khi trẻ.


40
Отличны друг от друга города,
И люди, и дома, и монументы.
Похожи только всюду и всегда
Поэты, ребятишки и студенты!

Не потому ль всегда мне так близки,
В каком бы ни был уголке планеты.
Сограждане мои и земляки,
Студенты, ребятишки и поэты!

40
Nét khác biệt ở các thành phố lớn
Những con người, đài kỷ niệm, những ngôi nhà.
Còn giống nhau mọi thời gian, mọi chốn
Là những sinh viên, con trẻ các nhà thơ.

Có phải thế mà tôi luôn gần gũi
Cho dù tôi đi khắp chốn, mọi miền
Đồng bào của tôi – những đồng hương yêu quí
Và những nhà thơ, con trẻ, sinh viên.




41
Всезнающих людей на свете нет,
Есть только те, кто мнит себя всезнающим.
Порой мне страшен их авторитет,
Взгляд осуждающий и взгляд карающий.

Всего не знал ни Пушкин, ни Сократ,
Все знает в целом мир, большой и многолюдный,
Но судят мир порою те, что мнят
Себя носителями истин абсолютных.

41
Trên đời này chẳng có ai biết hết
Chỉ có những người lầm tưởng thế mà thôi.
Tôi thấy sợ cho những ai quyền lực
Cái nhìn luôn luôn đoán xét con người.

Biết hết cả, chẳng Puskin, không Xôcrát
Biết làm sao đời rộng lớn, đông người
Nhưng người ta đem cuộc đời đoán xét
Nhầm tưởng mình là chân lý đấy thôi.



42
Опять дорога, мы всегда в пути.
Я знаю, сколько прошагал и прожил.
А сколько предстоит еще пройти,
Не знаешь ты, и я не знаю тоже.

Опять дорога, вечно мы в пути.
Я вижу цель. Она всего дороже.
А суждено ли до нее дойти,
Не знаешь ты. и я не знаю тоже.

42
Lại lên đường, ta luôn trên đường vậy
Anh biết chặng đường đã sống, đã đi
Nhưng chặng đường trước mắt mà ta phải
Thì cả hai ta đều chẳng biết gì.

Lại lên đường, muôn năm trên đường vậy
Thấy mục đích. Mục đích quí nhất đời
Nhưng liệu trời có cho đi đến đấy
Em không biết gì, anh cũng thế thôi.



THƠ TÁM CÂU - 31-36



31
Прекрасны в книге жизни все страницы,
Все в этой книге здраво и умно.
Чтоб вновь родиться колосом пшеницы,
Ложится в землю мертвое зерно.

Когда весенний дождь прольется где-то,
В лугах взойдет шумящая трава;
Когда слеза блеснет в глазах поэта,
Родятся настоящие слова.

31
Trong sách đời tất cả trang đều tuyệt
Tất cả trong sách này sáng suốt, thông minh.
Để lần nữa sinh ra bông lúa mạch
Gieo vào đất những hạt giống nằm yên.

Khi cơn mưa mùa xuân rơi đâu đó
Thì trên đồng xào xạc cỏ và hoa
Khi nước mắt rơi từ đôi mắt thi sĩ
Thì những lời chân chính được sinh ra.


32
Здесь у нас такие горы синие
И такие золотые нивы!
Если б все края их цвет восприняли,
Стала бы земля еще красивей.

Есть заветы новые и дедовы
У людей земли моей весенней.
Если б мир заветам этим следовал,
Стал бы он гораздо совершенней.

32
Quê hương tôi có những cánh đồng vàng
Và quê tôi có núi đồi xanh thắm!
Giá mà khắp nơi người ta đều tiếp nhận
Những màu sắc này, trái đất sẽ đẹp hơn.

Con người sống trên trái đất mùa xuân
Có di chúc bây giờ và của ông cha để lại.
Giá người ta làm theo những lời di chúc ấy
Thì thế giới này sẽ tuyệt vời hơn.




33
От отчих мест теперь мой дом далеко;
Переношу я плохо высоту,
И все ж от вас не слышал я упрека,
Я знаю, горцы, вашу доброту.

И знаю, слово доброе найдется
Для брата своего на том пути,
В тот час, когда вам на плечах придется
Меня в последний путь мой понести!

33
Nhà của tôi giờ cách xa nơi bố
Tôi nhọc nhằn với cái cảnh núi đồi
Nhưng dù sao tôi nghe lời chửi rủa
Thì hiểu ra lòng tốt của mọi người.

Tôi biết rằng lời tốt luôn tìm thấy
Cho người anh em trên một con đường
Khi trên vai mình mọi người đành phải
Gánh tôi đi vào con đường cuối cùng!


34
Немало песен сочинил поэт
О нашем крае, о горах высоких,
И горный край о нем сто двадцать лет
Поет на языке своих потомков.

Туман веков, как сумеречный дым,
Плывет по небу, но нерасторжимы
Певец Кавказа, павший молодым,
И сам Кавказ с вершинами седыми.

34
Một nhà thơ viết nhiều những bài thơ
Về quê hương, núi đồi cao chót vót
Một trăm hai mươi năm núi đồi về nhà thơ
Bằng giọng của con cháu mình vẫn hát.

Sương thế kỷ như màn khói hoàng hôn
Bay giữa trời nhưng không hề phân tán
Người ca sĩ Kapkaz chết tuổi thanh xuân
Kapkaz tự mình với đỉnh cao bạc trắng.




35
Золотая рыбка, где угодно
Плавай: я тебя не залучу.
Славу клянчить вроде неудобно,
Серебра и злата не хочу.

А назад мне молодость былую
Не вернешь ты, не зажжешь меня
Первой встречей, первым поцелуем,
Первой песней ночью у огня.

35
Con cá vàng ơi, ngươi ở đâu tuỳ ý
Hãy bơi đi, ta chẳng gọi ngươi đâu
Giờ thanh danh không tiện điều năn nỉ
Còn bạc vàng ta lại chẳng cần đâu.

Thời tuổi trẻ của ta ngươi không thể
Trả lại ta, ngươi cũng chẳng đốt lên
Nụ hôn đầu tiên, lần đầu gặp gỡ
Bài hát đầu bên ngọn lửa trong đêm.



36
Что с горцем стряслось: высоты я боюсь.
Зачем я взошел на вершину за тучи?
Мне кажется, не удержусь я, сорвусь,
Канат оборвется, и грохнусь я с кручи.

Поэт, я стою на вершине своей,
И трудно, и страшно, а мне все неймется.
Мне с каждою песней дышать тяжелей,
И кажется - строчка вот-вот оборвется.

36
Có điều xảy ra: đỉnh cao tôi sợ lắm.
Tôi lên đỉnh cao sau mây để làm gì?
Có lẽ không giữ được, tôi ngã xuống
Từ dốc cao khi đứt sợi dây kia.

Tôi đang đứng trên đỉnh cao của mình
Và thấy khủng khiếp, nhọc nhằn ghê gớm.
Thêm mỗi bài thơ càng khó thở hơn
Và ngỡ như từng dòng đang đứt quãng.



THƠ TÁM CÂU - 25-30



25
Нового, сверхмощного оружья
Не изобретайте для людей.
Стародавнее оружье - дружба
Вложена в ножны души моей.

Нам отцы и деды завешали
Золото оружья своего,
Чтобы мы сломать его не дали,
Чтоб не дали затупить его.

25
Những vũ khí mới cực kỳ hiện đại
Đừng chế tạo ra chống lại con người.
Vũ khí tự ngàn xưa – tình hữu ái
Hãy đặt vào trong bao vỏ cho tôi.

Lời di chúc của cha ông để lại
Cho chúng ta là thứ vũ khí vàng
Để chúng ta không cho ai bẻ gãy
Để chúng ta không cho họ làm cùn.



26
Шумит листвой иной зеленый сад
И шепчет: мол, цвету я всем на зависть!
А в небе тучи, предвещая град,
Глядят, смеясь, на молодую завязь.

Иные люди с легкостью твердят,
Как счастливо они живут на свете.
А счастье хмурит свой недобрый взгляд:
«Какие вы глупцы, какие дети!»

26
Trong vườn xanh những chiếc lá reo vang
Rồi thì thầm: ta ghen cùng ánh sáng!
Còn trên trời những đám mây trĩu nặng
Ngó xuống cười những chiếc lá còn xanh.

Còn một số người dễ dàng quả quyết
Rằng họ hạnh phúc sung sướng trên đời.
Còn hạnh phúc thì lại chau lông mày:
“Ôi các con thật vô cùng dại dột!”




27
«Дайте мне отцовского коня,
Я скакать умею, слава богу!»
Я вскочил в седло, но конь меня
Сбросил, и упал я на дорогу.

«Тише, люди. Я играть начну,
Дайте мне пандур отца хваленый...»
Только тронул пальцами струну -
И струна оборвалась со звоном.

27
“Hãy đưa tôi con ngựa của cha tôi
May mắn thay là tôi còn biết nhảy!”
Tôi nhảy lên và con ngựa quẳng tôi
Ngã lăn quay bên vệ đường lúc ấy.

“Mọi người nghe. Tôi bắt đầu chơi đây
Trao cho tôi cây đàn cha ca tụng...”
Chỉ vừa mới động ngón tay vào dây
Thì dây đàn đứt ra cùng với tiếng.



28
Не вечным мне кажется наш небосвод.
Он шатким и ветхим порою мне кажется.
Порою мне кажется: небо вот-вот
Падет мне на голову всей своей тяжестью.

Но высятся горы, и я защищен
Вершинами горными, горными кручами,
Они подпирают собой небосклон,
Как старую кровлю опоры могучие.

28
Tôi cứ ngỡ bầu trời không muôn thuở
Mà nát nhàu và ọp ẹp, rung rinh
Giờ tôi ngỡ rằng bầu trời sắp sửa
Đổ xuống đầu tôi với sức nặng của mình.

Nhưng những ngọn núi nhô cao bảo vệ
Bằng những đỉnh cao bằng những dốc cao
Chúng sừng sững vươn mình lên chống đỡ
Như mái nhà xưa có những cột to cao.



29
«Где же ты, счастье, где светлый твой лик?»
«Я на вершинах, куда не всходил ты!»
«Где же ты, счастье? Вершин я достиг».
«В реках, в которых покуда не плыл ты!»

«Где ты, я тысячу рек переплыл?»
«В песнях, которые завтра ты сложишь!»
«Где ты, я песню тебе посвятил?»
«Я впереди! Догони, если можешь!»

29
“Hạnh phúc ơi, ở đâu gương mặt ngươi kiều diễm?”
“Trên đồi cao, người chưa tới bao giờ!”
“Ngươi ở đâu? Đồi cao tôi đã đến”.
“Ở trên sông, nơi người chẳng đi qua!”

“Ngươi ở đâu? Nghìn con sông đã bơi”.
“Trong bài hát, ngày mai người sẽ nghĩ!”
“Ngươi ở đâu? Bài hát viết xong rồi”.
“Ở phía trước! Hãy theo, nếu còn có thể!”



30
На полях, где зреет урожай,
Мы скупую землю орошаем.
На полях созреет урожай -
Мы хлеба под корень подрезаем.

Но просторы этих же полей
Нашей кровью орошает горе.
И самих жнецов, и плугарей,
Как хлеба, срезает нас под корень.

30
Trên những cánh đồng lúa đang tốt tươi
Ta tưới nước cho mặt đất khô khốc.
Trên những cánh đồng lúa đã chín rồi –
Những ruộng lúa mì ta cắt tận gốc.

Nhưng khoảng rộng của những cánh đồng này
Tưới bằng máu của ta bao khó nhọc
Và chính những người thợ gặt, thợ cày
Như lúa mì đang bị cắt tận gốc.