Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 97-102



97
Сперва тебя я другом называл,
Но был ты лишь лжецом себялюбивым,
Потом, что ты мне враг, я полагал,
Ты оказался подлецом трусливым.

Ну что ж, не плачу я, судьбу кляня,
С тобой не знаясь нынче, как бывало.
На свете, слава богу, у меня
И без твоей вражды врагов немало! 


97
Ta gọi ngươi là bạn lúc ban đầu
Nhưng ngươi là kẻ không yêu người khác
Rồi ta nghĩ ngươi là kẻ thù lúc sau
Ngươi hoá ra là một tên hèn mạt.

Nhưng mà ta không khóc, chẳng trách đời
Rằng ta và ngươi không còn giao thiệp.
Lạy Thánh Ala, đối với ta trên đời
Dù thiếu ngươi kẻ thù còn không ít!



98
Оставьте одного меня, молю,
Устал я от дороги и от шума,
Я на траве, как бурку, расстелю
Свою заветную мечту и думу.

О люди, подойдите же ко мне,
Возьмите в путь, - я никогда не думал,
Что будет страшно так наедине
С моей мечтой, с моей заветной думой.

98
Xin để tôi một mình, tôi xin lạy
Tôi giờ đang mệt mỏi bởi đường dài
Trên cỏ hoa như áo buốc-ca tôi cởi
Những nghĩ suy và mơ ước của tôi.

Xin hãy cho tôi đến với mọi người
Cho tôi đi – chưa bao giờ tôi nghĩ
Rằng thật khủng khiếp khi chỉ mình tôi
Với ước mơ, với những điều suy nghĩ.



99
Однажды утром мать меня спросила:
«Сынок, скажи мне, быть ли вновь войне?
Я нынче слезы видела во сне,
Я слышу шум, я двери затворила».

«Не бойся, мама, этот шум иль шорох
Пускай твоих не беспокоит снов:
То жабы квакают в своих гнилых озерах
И напугать хотят степных орлов».

99
Có một lần, buổi sáng, mẹ hỏi tôi:
“Con trai ơi, liệu chiến tranh còn nữa
Trong giấc mơ mẹ thấy nước mắt rơi
Nghe tiếng động và mẹ đem khoá cửa”.

Tôi trả lời: “Mẹ đừng lo tiếng động
Trong giấc mơ, đừng phiền muộn, băn khoăn
Đấy là tiếng cóc trong hồ nước bẩn
Ộp oạp kêu lên đòi doạ đại bàng”.



100
Люди, мы утром встаем и смеемся.
Разве мы знаем, что день нам несет?
День настает, мы клянем и клянемся;
Смотришь, и вечер уже у ворот.

Наши сокровища – силу и смелость –
День отнимает у нас, уходя…
И остается спокойная зрелость –
Бурка, надетая после дождя.

100
Mỗi buổi sáng ta thức dậy mỉm cười
Ngày ra sao ta biết gì đâu chứ
Ngày đến đây ta thề thốt, trách ngày
Ngước nhìn lên chiều đã về bên cửa.

Báu vật của ta – sức mạnh, lòng can đảm
Ngày gom vào rồi mang nó đi xa
Chỉ còn lại sự trưởng thành trầm lắng
Áo buốc-ca dùng để mặc sau mưa.



101
Не верю в чудеса и провидение,
Но пусть вступает смерть в свои права,
Пускай возьмет меня в свои владения
И, взяв, отпустит года через два.

Чтоб, возвратившись из предела дальнего,
Я мог оставленное оглядеть,
К тебе вернуться, если ты печальная,
А если нет, так снова умереть.

101
Anh không tin vào thiên mệnh, diệu kì
Nhưng vẫn ước một điều gì như vậy
Cứ để cho thần chết bắt anh đi
Rồi lại thả về vài năm sau đấy.

Để anh trở về từ chốn xa xăm
Đi tìm xem những gì xưa bỏ lại
Về bên em, nếu như em đau buồn
Còn nếu không thì anh xin chết lại.



102
Вина приготовь, сухарей захвати –
Поделишься с другом в пути,
С собою кинжал поострей захвати –
Спокойнее будет идти!

Я вышел в дорогу, я вышел давно,
Лишь песню с собою взял.
С друзьями она – сухари и вино,
С врагами она – кинжал.

102
Rượu và bánh hãy mang theo cho nhiều
Để trên đường còn chia cho bạn
Con dao găm thật sắc nhớ mang theo
Để đi đường thêm phần yên ổn.

Tôi bước ra đường đã từ lâu lắm
Nhưng theo mình chỉ bài hát tôi mang
Với bạn bè – nó là rượu và bánh
Còn với kẻ thù – nó là dao găm.




THƠ TÁM CÂU - 91-96



91
Летят по небу голубые птицы.
Пытаюсь я их сосчитать с земли;
Две, три, четыре, десять, двадцать, тридцать…
Не досчитал, все расплылось вдали.

Как стая птиц, летят года за горы,
Я их считаю, провожая вдаль:
Два, три, четыре, десять, двадцать, сорок…
И не понять мне, стая велика ль.

91
Một bầy chim bay lượn ở trên trời
Tôi cố đếm từng con từ mặt đất
Hai, ba, bốn, mười, hai mươi, ba mươi...
Không đếm hết, đàn chim bay đi mất.

Như bầy chim bay, năm tháng của tôi
Tôi đếm chúng rồi tiễn về sau núi:
Hai, ba, bốn, mười, hai mươi, bốn mươi...
Nhưng bầy lớn không thì tôi không hiểu nổi.


92
И снова, снова черный ворон ищет
Жилье, откуда не выходит дым.
Как вестник смерти кружит над жилищем,
Покинутым хозяином своим.

О люди, пусть ваш дом достатком дышит,
Пусть озарят его покой и труд,
Пусть не кружится воронье над крышей,
Пусть ласточки над крышей гнезда вьют.

92
Lại một con quạ đen đang tìm kiếm
Một ngôi nhà không có khói bay lên.
Như người mang tin chết chóc nguy hiểm
Rằng người chủ ngôi nhà đã đến cõi tiên.

Tôi mong cho sự đủ đầy, êm ấm
Vẻ bình yên, lao động chiếu muôn nhà
Cho trên mái nhà quạ không quanh quẩn
Cho chim én về làm tổ hát ca.




93
О нашем крае всем краям подлунным
Я, как хотелось, рассказать не мог,
С собой носил я полные хурджины,
Да вот беда - их развязать не мог.

И звонкой песни на родном наречье
Я о подлунном мире спеть не мог.
Я кованый сундук взвалил на плечи,
Но сундука я отпереть не мог.

93
Tôi rất muốn kể về quê hương mình
Cho thế giới nghe nhưng không thể kể
Những chiếc hòm đầy tôi mang theo mình
Nhưng khốn nỗi  mở ra tôi không thể.

Những bài hát bằng ngôn ngữ của mình
Cho thế giới nghe, tôi không thể hát.
Tôi chất cái rương viền sắt lên lưng
Nhưng viền sắt thì tôi không mở được.


94
Капли на щеки поэта упали.
На правой щеке его и на левой.
То капля радости, капля печали.
Слезинка любви и слезинка гнева.

Две маленькие капли, чисты и тихи,
Две капли бессильны, пока не сольются,
Но, слившись, они превратятся в стихи,
И молнией вспыхнут, и ливнем прольются.

94
Trên má nhà thơ những giọt lệ tuôn
Cả bên phải, bên trái đều ướt đẫm.
Một giọt vui, lại một giọt buồn
Nước mắt yêu thương, nước mắt thù hận.

Hai giọt nhỏ sạch sẽ, lặng như tờ
Chúng bất lực một khi chưa thành mặn
Nhưng hợp lại và chúng biến thành thơ
Sấm chớp nổi lên, mưa rào trút xuống.




95
Птицы, оперившись, улетают,
Прочь спешат из отчей стороны.
И порою люди умирают
Не на той земле, где рождены.

Человек живет и вдаль стремится,
Хочет он догнать свою мечту.
Так и умирает, словно птица,
Сердце надорвавши на лету.

95
Chim đủ lông sổ lồng bay đi hết
Chim vội vàng bay khỏi đất ông cha.
Thời bây giờ con người ta cũng chết
Ở xứ người, nơi không phải sinh ra.

Con người sống về miền xa khao khát
Cả cuộc đời theo đuổi một ước mơ
Thế rồi giống như con chim khi chết
Chỉ con tim khi bay bổng nhớ nhà.


96
Помню, я в чужом краю гостил,
Видел, как поэты состязались,
Как друг друга, не жалея сил,
Перепеть любой ценой старались.

Был мне непонятен этот спор.
Что за блажь перепевать друг друга!
Сильному уступишь - не позор,
Слабого осилишь - не заслуга.

96
Ở miền xa, tôi nhớ, có một lần
Tôi từng thấy các nhà thơ đem đọ
Tài với nhau, họ không tiếc sức mình
Ráng nhại theo nhau dù bằng mọi giá.

Cuộc tranh luận này tôi không hiểu rõ
Nhại theo nhau qủa là ý ngông cuồng.
Nhường kẻ mạnh – chẳng có gì xấu hổ
Thắng kẻ hèn – không một chút vinh quang.




THƠ TÁM CÂU - 85-90



85
В Хиросиме этой сказке верят:
Выживает из больных людей
Тот, кто вырежет, по крайней мере,
Тысячу бумажных журавлей.

Мир больной, возьми бумаги тонкой,
Думай о бумажных журавлях,
Не погибни, словно та японка,
С предпоследним журавлем в руках.

85
Ở Hirôsima người ta tin rằng:
Ai nhiễm xạ sẽ vượt qua cơn bệnh
Nếu người đó cắt ít nhất một nghìn
Nghìn con sếu được cắt bằng giấy trắng.

Đời đang đau, hãy lấy ra trang giấy
Hãy nghĩ về những con sếu đang bay
Và xin đừng chết giống như cô gái
Với con sếu 999 ở trong tay.


86
Долго я ходил по белу свету.
Видел много совершенных книг.
А сама великая планета -
Рукопись, вернее, черновик.

Сколько в ней неправильных заглавий,
Сколько строчек заключают зло!
Вот бы все изъяны в ней исправить,
Все переписать бы набело.

86
Tôi đã từng đi khắp nơi
Đã từng thấy nhiều cuốn sách hoàn hảo
Nhưng chính quyển sách đời
Là bản nháp, chính xác hơn, bản thảo.

Trong sách này có nhiều chương lầm lỡ
Có biết bao dòng ác độc, khổ đau!
Giá như bản thảo này đem sửa
Thì hoá ra phải viết lại từ đầu.


87
Говорят, что раньше сотворенья
Прозвучало слово в первый раз.
Что в нем было: клятва ли, моленье?
Что в нем было: просьба ли, приказ?

Чтобы мир спасти от разрушенья,
Может, слово надо нам сейчас.
Пусть в нем будет клятва и моленье,
Пусть в нем будет просьба и приказ.

87
Nghe nói rằng thuở khai thiên lập địa
Lời nói đầu tiên có mặt trên đời.
Lời cầu nguyện và thề nguyền trong đó?
Hay sự cầu xin và mệnh lệnh trong lời?

Cho khỏi tan hoang, huỷ hoại cuộc đời
Ta cần lời bây giờ, có thể lắm.
Dù trong lời: thề nguyền hay cầu nguyện
Dù sự cầu xin và mệnh lệnh trong lời.




88
Что слепому все темно кругом,
Вовсе не безлунье виновато,
И не виновато поле в том,
Что живет крестьянин небогато.

Что зимой босому нелегко,
Стоит ли винить мороз проклятый?
Что людское горе велико,
В этом сами люди виноваты.

88
Rằng người mù khắp nơi đều tối
Thì điều này đâu tại bởi thiếu trăng
Và cánh đồng cũng không hề có lỗi
Vì sao nông dân lại sống nghèo nàn.

Rằng mùa đông đi chân trần không dễ
Thì giá băng đâu tại bởi ông trời
Còn con người sao khổ đau nhiều thế
Thử nghĩ xem có phải tại con người.


89
Шар земной, для одних ты арбуз. На куски
Разрезают тебя и кромсают зубами.
Для других ты - лишь мяч, и, толпясь, игроки
То хватают тебя, то пинают ногами.

Шар земной для меня не арбуз и не мяч.
Шар земной, для меня ты - лицо дорогое,
Я слезинки твои утираю - не плачь,
Кровь смываю твою и пою над тобою.

89
Trái đất là quả dưa – với một người này
Họ bổ dưa, cắt nhỏ ra từng mảnh.
Với người khác – trái đất là quả bóng
Trên sân chơi những cầu thủ giành nhau.

Trái đất với tôi không phải dưa hay bóng
Mà trái đất là gương mặt với tôi
Tôi dỗ dành, chùi nước mắt cháy bỏng
Vết máu tôi lau, tôi hát về người.


90
В горах у нас, - так люди говорят, -
Была межа границею наделов,
Но если вдруг обрушивался град,
Сметая все, на межи не глядел он.

Разделена границами земля,
Но если град иль буря разразится,
Они не спросят, чьи это поля,
И не посмотрят, где идет граница.

90
Ở quê tôi người ta thường nói rằng
Có những bờ phân chia từng suất ruộng
Nhưng nếu mưa đá bỗng nhiên trút xuống
Thì chẳng còn bờ, dấu vết sạch trơn.

Trái đất phân chia theo đường biên giới
Nhưng nếu bão dông hay mưa đá rơi
Chúng không hỏi đâu là ruộng của ai
Chúng không nhìn ở đâu là biên giới.




Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 79-84



79
На лбу твоем алеющий кружок
Горит, как на письме печать, о Индия.
Я вскрыл конверт и по дорожкам строк
Иду, хочу тебя понять, о Индия.

Я вижу всюду нищие дома.
Я много писем получал, о Индия.
Но горестнее твоего письма
До сей поры я не читал, о Индия.

79
Trên trán Người một chấm son cháy đỏ
Như dấu triện trong thư, Ấn Độ ơi
Tôi mở phong bì theo từng dòng chữ
Tôi muốn ôm lấy Người, Ấn Độ ơi.

Tôi thấy khắp nơi những nhà rách nát
Rất nhiều thư tôi nhận, Ấn Độ ơi
Nhưng khổ đau hơn bức thư của Người
Cho đến bây giờ tôi chưa hề đọc.

  

80
Проносят жениха на свадьбе в Дели,
И музыканты проявляют прыть.
Родные лет пятнадцать скудно ели,
Копя гроши, чтоб свадьбу оплатить.

И молодым еще придется годы
Пот проливать, чтоб вылезть из долгов.
Порой свобода малого народа
Оплачена, как свадьба бедняков.

80
Ở Đê-li chú rể làm đám cưới
Thì những nhạc công thể hiện hết mình.
Cha mẹ chàng rể khó nhọc mười lăm năm
Gom từng đồng để trả cho đám cưới.

Đôi vợ chồng trẻ còn nhiều năm nữa
Đổ mồ hôi để trả hết nợ nần.
Giá tự do nhiều dân tộc cũng thế
Được trả như đám cưới kẻ bần nông.




81
Когда б жестокосердье человечье
Могло бы превратиться в снег и лед,
Была бы на планете стужа вечной
От южных и до северных широт.

Когда бы стала доброта людская
Водою родниковой, то всегда
На всей земле от края и до края
Журчала бы прозрачная вода.

81
Giá mà những con tim ác độc
Có thể biến thành tuyết, thành băng
Thì hành tinh này từ nam chí bắc
Sẽ là mùa đông băng giá vĩnh hằng.

Còn giá như lòng tốt của con người
Sẽ trở thành một nguồn nước mạch
Thì trên trái đất này khắp mọi nơi
Một dòng suối trong muôn đời róc rách.



82
Порой мне кажется: я целина.
То прогибаюсь я от урожая,
То чахну я и сохну, не рожая
Ни колоска, ни стебля, ни зерна.

Мне мнится: - я хранилище зерна,
Оно от хлеба ломится порою,
Порой зимою в нем лишь ветер воет.
И всем грозит голодная весна.

82
Tôi ngỡ mình như đồng đất khô cằn
Vì mùa màng tôi phải oằn lưng xuống
Tôi còm cõi, héo khô nhưng mà chẳng
Sinh cho đời dù một ngọn hay bông.

Tôi lại ngỡ mình là kho đựng lúa
Lúa đổ đầy tôi muốn vỡ tung ra.
Còn mùa đông gió gào thét trong kho
Và báo trước một mùa xuân đói khổ.




83
Везде поэты ропщут, что стихов
Не ценят люди и не понимают,
И тещи разных стран своих зятьев
За невниманье к женам укоряют.

Равно клянут шоферы всей земли
Полицию со злобою привычной.
Я понял, что у всех людей земли
Гораздо больше сходства, чем различья.

83
Khắp thế giới các nhà thơ than phiền
Rằng bạn đọc không hiểu thơ, không quí
Các bà mẹ thường trách rể của mình
Là tại sao không quan tâm tới vợ.

Các tài xế trách cảnh sát của mình
Vì thói quen họ cho là tai ác.
Tôi hiểu rằng mọi người trên hành tinh
Có nhiều điểm giống nhau hơn là khác.



84
Когда-то в старину карали строго
Людей, дерзавших рисовать людей.
Считалось: подобает только богу
Все смертное творить рукой своей.

У человека много черт, которых
Не передаст ни краска, ни узор.
Ведь на картинках даже лес и горы
Бледнее истинных лесов и гор.

84
Thuở xa xưa phạt nghiêm khắc những kẻ
Dám cả gan đem ra vẽ hình người
Bởi cho rằng chỉ một mình Thượng đế
Tạo ra bằng bàn tay của Ngài thôi.

Có rất nhiều đường nét của con người
Không vẽ được, dù hoa văn hay mực
Bởi trong tranh ngay cả núi và đồi
Tái nhợt hơn cả đồi và núi thực.