Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 151-156



151
О радио, ты бога не гневи,
Восьмиминутный даровав мне срок,
Чтобы восьми избранницам в любви
Восьмого марта я признаться мог.

Восьми минут не мало ли на них
Или минутой обойдусь вполне?
Не мало ли мне женщин восьмерых,
А может, и одной куда как много мне?

151
Nhà đài ơi đừng giận chi Thượng đế
Tám phút trên đài xin hãy tặng cho tôi
Để tỏ tình yêu tôi sẽ nói những lời
Trong ngày 8-3 với tám người phụ nữ.

Tám phút trên đài liệu có ít cho tôi
Hay chỉ cần một phút thôi là đủ?
Liệu có ít cho tôi tám người phụ nữ
Khi chỉ một người thôi đã thấy quá nhiều rồi?



152
Поэтом не был я, когда с вершины
Твое влюбленно имя прошептал.
И песнею с той памятной годины
Оно слывет, уплыв за перевал.

Изречь немало, сделавшись поэтом,
Напевных слов мне было суждено,
Но не твое ли имя в мире этом
Есть лучшее, что мной изречено?

152
Không phải nhà thơ khi anh từ núi cao
Mà cái tên em nhắc đi nhắc lại.
Và bài ca từ thuở ban đầu ấy
Nó vang lên rồi bay biến qua đèo.

Nhà thơ viết ra không ít những lời hay
Trời sinh anh để bài ca anh viết
Nhưng có phải tên em trên đời này
Còn đẹp hơn những lời hay anh viết?



153
Товарищи далеких дней моих,
Ровесники, прожившие так мало!..`
Наверное, остался я в живых,
Чтоб память на земле не умирала.

На поле боя павшие друзья -
Вас было много, страстно жизнь любивших.
Я ведаю: в живых остался я,
Чтоб рассказать о вас, так мало живших.

153
Những bạn bè của tôi thời xa vắng
Bạn đồng niên còn sống chẳng mấy người!...
Nhưng có lẽ bây giờ tôi còn sống
Để kỷ niệm trên đời không chết đấy thôi.

Những bạn bè tôi chết ngoài mặt trận
Họ đã từng yêu tha thiết cuộc đời.
Tôi hiểu rằng: bây giờ tôi còn sống
Là để kể về những bè bạn của tôi.



154
На неведомых перронах
Выхожу я из вагона
На коротких остановках:
Вдруг увижу я тебя!

В дальних странах незнакомых,
На чужих аэродромах
Выхожу: вдруг ту увижу,
Что похожа на тебя!..

154
Trên những sân ga chưa từng biết
Anh bước ra khỏi toa tàu
Những khi con tàu dừng bánh không lâu
Bỗng anh nhìn thấy em, rất đột ngột!

Ở nhưng xứ sở không quen
Những sân bay chưa hề biết
Anh bước ra và rất đột ngột
Nhìn thấy người rất giống với em!..



155
Жизнь капризна. Мы все в ее власти.
Мы ворчим и ругаем житье.
...Чем труднее она, чем опасней -
Тем отчаянней любишь ее.

Я шагаю нелегкой дорогой,
Ямы, рытвины - только держись!
Но никто не придумал, ей-богу,
Ничего, что прекрасней, чем жизнь.

155
Đời đỏng đảnh. Ta mặc cho số phận
Ta vần xoay, ta chửi bới  cuộc đời.
...Đời càng nguy hiểm, khó khăn càng lắm
Ta càng yêu  đến tuyệt vọng không thôi.

Tôi bước đi vất vả giữa đường đời
Luôn dè chừng – hố nhỏ to có đủ!
Nhưng cuộc đời – tôi xin nói có trời
Chẳng có gì tuyệt vời hơn nó cả.



156
Все людям снится: радость, грусть
И прочный мир в дому...
Но только наши встречи пусть
Не снятся никому.

Пускай никто о нас с тобой
Не ведает вокруг -
Про наше счастье, нашу боль
И песни первый звук...

156
Người ta mơ những buồn, vui
Và hoà bình cho tất cả...
Nhưng những lần ta gặp gỡ
Thì chỉ có ta thôi.

Hãy để những người xung quanh
Không ai biết gì về ta cả --
Về hạnh phúc và đau khổ
Và bài hát đầu tiên...



THƠ TÁM CÂU - 145-150



145
Что не бывает в наши лета?
И я поныне не забыл,
Как враждовали два поэта
И как их третий примирил.

Былые схватки позабылись,
И оба, эка благодать,
Они в борьбе объединились
И стали... с третьим враждовать.

145
Đã từng có một lần
Đến bây giờ tôi còn nhớ mãi
Có hai nhà thơ thù hằn
Và người thứ ba đứng ra hoà giải.

Thế rồi thù hận họ quên nhanh
Cả hai trở nên thân thiết
Họ cùng hợp sức đấu tranh
Với người thứ ba như kẻ địch.



146
«Пошли со мной, джигит!» - «Куда?»
«Связала бы твой рот оскома.
Когда спешишь спросить «куда?» -
То лучше оставайся дома!»

«Пошли со мной, джигит!» - «Пошли!»
«Да будет верный и бедовый
Во всякий час в любой дали
Друг у тебя, на все готовый!»

146
“Đi cùng tôi, kỵ sĩ!" – "Đi đâu vậy?”
“Tốt nhất là anh im miệng cho rồi.
Khi cứ vội hỏi câu “đi đâu đấy”
Thì tốt nhất là hãy ở nhà thôi!”

“Đi cùng tôi, kỵ sĩ!" – "Ta đi bạn!”
“Thế là có người táo bạo, trung thành
Trong mọi thời gian, xa xôi chẳng quản
Người bạn của anh tất cả sẵn sàng!”



147
Божественной достигнув высоты
И отражая дней своих приметы,
Художники сумели на холсты
Перенести библейские сюжеты.

Пишу в стихах, любовью обуян,
Я образ твой, хотя запрет на это
Давным-давно как наложил Коран,
Но страсть моя сильней его запрета.

147
Một khi đạt đến đỉnh cao thần thánh
Những dấu hiệu của mình được thể hiện ra
Những người hoạ sĩ đã biết vẽ ra
Trên bức tranh câu chuyện trong Kinh Thánh.

Anh mô tả hình dáng em trong thơ
Dù điều này trong Koran đã cấm
Nhưng đam mê mạnh hơn điều cấm đoán
Đã được đặt vào trong sách Thánh từ xưa.



148
Не лучший я из тысячи других,
Но ты, когда-то встретившись со мною,
Вообразила, будто под луною
Из тысячи я лучше остальных.

Не худший я из тысячи, поверь,
Но ты моей ослеплена виною,
И потому из тысячи теперь
Кажусь тебе я худшим под луною.

148
Trong nghìn kẻ anh không người tốt nhất
Nhưng ngày đầu em gặp gỡ cùng anh
Em hình dung, em cứ ngỡ, dưới trăng
Trong nghìn kẻ anh tốt hơn người khác.

Trong nghìn kẻ anh không người xấu nhất
Nhưng lỗi của anh làm loá mắt nhìn
Vì thế, giờ đây trong số một nghìn
Dưới ánh trăng em ngỡ anh xấu nhất.



149
Как будто бы зажженная свеча,
Та женщина возникла предо мною,
И на нее, как стоя пред стеною,
Я из-за твоего гляжу плеча.

Назначил бы свиданье под луной
Владелице пленительного взгляда,
Но между этой женщиной и мной
Ты – непреодолимая преграда.

149
Có vẻ như ngọn nến vừa đốt lên
Người phụ nữ trước mặt anh xuất hiện
Trước bức tường anh lặng yên đứng ngắm
Nhưng chỉ nhìn ra bờ vai nhỏ của em.

Có vẻ như định trước buổi hẹn hò
Ánh mắt nhìn sau bờ mi quyến rũ
Nhưng ở giữa anh và người phụ nữ
Vật cản là em, không thể vượt qua.



150
Наступили весенние дни,
Снова птицы ворвались в дубравы,
Ничего-то не знают они
О великом недуге державы.

Был когда-то беспечен я сам,
Походя на веселую птицу.
Нынче внемлю иным голосам,
И слеза прожигает страницу.

150
Giờ mùa xuân đã về trước ngõ
Chim lại đua nhau về với rừng già
Chúng chẳng biết, chẳng hề hay gì cả
Về những điều đại họa của quốc gia.

Tôi ngày xưa cũng vô tư như vậy
Cũng từng giống như những chú chim vui.
Còn bây giờ nghe theo lời ai đấy
Để nước mắt rơi xuống ngậm ngùi.


THƠ TÁM CÂU - 139-144



139
Не затем пишу, чтоб забавляла
Песнь моя любимую мою.
Я хочу, чтобы друзьям в бою
Песнь моя сражаться помогала.

Не затем пишу, чтоб забавляла
Песнь моя подвыпивших гостей.
Я хочу, чтоб родине моей
Песнь моя трудиться помогала.

139
Viết làm chi, viết chỉ để làm trò
Tôi làm thơ để vui người yêu dấu.
Nhưng tôi muốn thơ của tôi giúp cho
Bạn bè tôi, những người đang chiến đấu.

Viết làm chi, viết chỉ để làm trò
Với những khách rượu chè say chếnh choáng.
Nhưng tôi muốn thơ của tôi giúp cho
Quê hương tôi, giúp những người lao động.



140
«Эй, кошка, куда ты несешься опять?»
«Бегу от собаки, что гонит меня!»
«Эй, пес, кто тебя заставляет бежать?»
«Охотничий посвист да топот коня!»

«Эй, конь, отчего твой стремительный бег?»
«Вздымается плеть седока надо мной!»
«А ты целый век что спешишь, человек?»
«Когтит меня время, трубя за спиной!»

140
“Ê, con mèo, mi chạy đi đâu đấy?”
“Tôi chạy vì con chó đuổi theo tôi”.
“Thế con chó, ai bắt buộc nhà ngươi?”
“Tiếng vó ngựa, tiếng huýt làm tôi chạy”.

“Thế con ngựa, vì sao ngươi chỉ chạy?”
“Vì trên đầu người kỵ sĩ giơ roi”.
“Cả thế kỷ, vội đi đâu, con người?”
“Thời gian giục tôi, kêu ầm sau lưng đấy”.



141
Если дружбы ты верен заветам,
То хотел бы я знать, для чего
Ты настраивал струны при этом
На пандуре врага моего?

Небеса над горами едины
И для ворона, и для орла.
Но ни разу, хоть вечность прошла,
Не видали их вместе вершины.

141
Nếu ngươi trung thành với bạn
Thì tôi muốn biết tại sao ngươi
Lên dây đàn theo giọng
Của cây đàn kẻ thù tôi?

Bầu trời chung cho tất cả
Cho quạ khoang, cũng thế, cho đại bàng
Nhưng muôn đời nay vẫn là chuyện lạ
Nếu chúng cùng chung một đỉnh vinh quang.



142
Вдвоем при звездах, словно при лампадах,
Аллах и я, беседуя, сидим.
То сходимся во мнении мы с ним,
То спорим и расходимся во взглядах!

Насупясь, он корит меня в грехах,
И голову склоняю я в печали,
Но говорю, вздыхая: «О, аллах!
Бываешь сам ты справедлив всегда ли?»

142
Dưới trời sao, tựa như dưới ánh đèn
Thánh Ala và tôi ngồi trò chuyện.
Có nơi chúng tôi cùng một cách nhìn
Và có chỗ khác nhau về quan điểm!

Ngài nghiêm mặt trách tôi vì lỗi lầm
Trong khổ đau tôi cúi đầu im lặng.
“Thánh Ala ơi – tôi nức nở thì thầm –
Nhưng đâu phải Ngài lúc nào cũng đúng?”



143
Ты счастлив тем, что многие года
Живешь спокойно, с бурями не споря,
Друзей не знаешь, то есть никогда
Ни с кем не делишь радости и горя.

Но если даже прожил ты сто лет
И голова, как мудрость, поседела,
Тебе при людях говорю я смело,
Что не родился ты еще на свет.

143
Người hạnh phúc vì người tự ngày xưa
Sống lặng yên, cuộc đời không bão tố
Không kết bạn, nghĩa là không bao giờ
Chia sẻ cùng ai niềm vui, nỗi khổ.

Nhưng nếu như người sống đến trăm năm
Cả mái đầu, sự khôn ngoan đều bạc
Trước thiên hạ tôi mạnh dạn nói rằng:
Người chưa từng sinh ra trên mặt đất.



144
«Не бойся врагов, стихотворец! Взгляни,
Как верных друзей твоих много везде!»
«А если в день черный изменят они?»
«Не бойся! Жена не оставит в беде!»

«А если изменит жена?» - «Ничего!
Есть отчие горы в рассветном дыму».
«Чего же бояться тогда?» - «Одного:
Опасной измены себе самому!»

144
“Nhà thơ ơi đừng sợ gì kẻ thù!
Bạn chân thành có đầy khắp mọi lối!”
“Nhưng nếu một ngày bạn bè phản bội?”
“Đừng sợ gì! Còn có vợ nhà thơ”.

“Nhưng nếu vợ phụ tình?” – “Cũng đừng lo
Còn núi đồi quê hương trong sương sớm”.
“Thế thì tôi cần phải sợ cái gì?”
“Phản bội chính mình – chỉ một điều nguy hiểm”.




THƠ TÁM CÂU - 133-138



133
Я не хочу тебе петь колыбельной,
Чтоб ты спокойно спала,
Встать я хочу над твоею постелью
И простоять досветла.

Буду я ночью осеннею, длинною
Молча хранить твой покой.
Кленом, склоненным над спящей долиною,
Тихой скалой над рекой.

133
Anh không muốn hát ru em câu hát
Để ru em đi vào giấc ngủ say
Anh chỉ muốn đứng bên nhìn gương mặt
Và đứng yên như thế đến sáng ngày.

Một mình anh trong đêm thu dài rộng
Anh im lìm giữ yên lặng cho em
Như cây gia nghiêng mình trên thung lũng
Như trên sông vách đá đứng lặng yên.



134
Я о тебе, кто мне всего дороже,
Боюсь писать стихи. Вдруг, их прочтя,
Другой, меня достойней и моложе,
Тебя полюбит тоже не шутя.

Я о тебе, кто мне всего дороже,
Боюсь писать. Вдруг кто-нибудь любя,
Заговорит с другой, любимой тоже,
Словами, что нашел я для тебя.

134
Thơ về em – người anh yêu quí nhất
Sợ viết ra rồi ai đó đọc qua
Anh sợ người ta thông minh, trẻ đẹp
Yêu mất em chứ chẳng phải chuyện đùa.

Thơ về em – người anh yêu quí nhất
Sợ viết ra rồi ai đó tìm xem
Rồi đem nói với người yêu dấu nhất
Bằng những lời anh viết để cho em.



135
Ты права, с годами я мрачнею,
Нет у нас того, что раньше было.
Раньше я с тобой делился всею
Радостью, что юность мне дарила.

Верь, не стал я хуже, хоть делюсь
И не всем с тобою, как вначале,
Просто огорчить тебя боюсь,
Разделив с тобой свои печали!

135
Em có lý: anh giờ thay đổi lắm
Đã chẳng còn như những tháng ngày xanh.
Xưa chia sẻ cùng với em hết những
Niềm vui mà tuổi trẻ tặng cho anh.

Anh vẫn thế, cho dù anh đã chẳng
Chia hết cùng em như buổi ban đầu
Chỉ đơn giản bởi vì anh không muốn
Chia sẻ cho em toàn những nỗi đau.


136
Высокие травы родимого края
Июльское солнце сжигает дотла.
И я, как трава, увядаю, сгораю,
Хоть мне твоего не хватает тепла.

От ливня июльского никнет пшеница,
Всплывает на озере донная муть.
А мне бы напиться, а мне бы напиться,
А мне бы в бездонных глазах утонуть.

136
Những cây cao ở quê hương mình
Nắng tháng sáu đang làm cho cây cháy.
Anh cũng cháy, héo hon như cây vậy
Dù anh còn thiếu hơi ấm của em.

Mưa tháng sáu lên lúa mì đang quất
Còn trên hồ màn sương đục đang bay.
Giá mà anh được uống cho thật say
Giá mà anh được chìm trong đôi mắt.



137
«Эй, красавица, я не пойму,
Что глядишь ты грустно и сурово?»
«Чтобы выйти к другу своему,
Нет платка, нет платья дорогого!»

«Ну, а ты, дурнушка, что грустна,
Шаль твоя нова, шелка искрятся?»
«Что шелка, зачем мне шаль нужна,
Если не пред кем мне наряжаться».

137
-Người đẹp ơi anh không sao hiểu thấu
Có điều gì lo lắng, muộn phiền chăng?
-Em muốn đến với người em yêu dấu
Nhưng áo quần không đẹp, chẳng có khăn.

-Thế còn em, cô bé, sao buồn vậy
Khăn mới tinh, váy lấp lánh, sáng ngời?
-Em đâu có cần gì khăn với váy
Không có chàng em trang điểm với ai.



138
Еще давным-давно, себе на горе,
Я посвятил тебе свой первый стих,
Смеялась ты и вышла замуж скоро:
Муж – милиционер в чинах больших.

Я стал поэтом. Ты считаешь это
Своей заслугой. Что тебе сказать?
Когда ты можешь создавать поэтов,
Супруга научи стихи слагать.

138
Ngày xửa ngày xưa ở chốn núi rừng
Tôi tặng em dòng thơ đầu tôi viết
Em chỉ cười rồi em đi lấy chồng
Chồng của em – người sĩ quan cao cấp.

Tôi thành nhà thơ. Em cho điều này
Là công của em. Nhưng mà tôi muốn nói
Nếu quả em người thực sự có tài
Hãy dạy cho chồng làm thơ đi vậy.