Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 163-168



163
Обременен печалями, сразиться
С тобою, соловей, я не смогу…
С моим напевом твоему не слиться -
Не знавшему тоски ветвей в снегу.

Тебе желанен теплый край в лазури,
Мне дорог гор моих суровый склон,
Где в мрак и стужу пели на пандуре -
Что из засохшей ветви сотворен…

163
Hoạ mi ơi ta mang những nỗi buồn
Ta tranh giành với hoạ mi không được
Bài hát của ta và của ngươi không hoà nhập
Ngươi đâu biết nỗi buồn của chiếc lá mùa đông.

Ngươi chỉ mong miền nắng ấm trời xanh
Còn ta quí núi đồi cao vòi vọi
Nơi băng giá, bóng tối hát trên đàn
Rằng ta sinh ra từ những cành khô héo.


164
Быть домом должен всякий дом,
Дорога быть должна дорогой.
И рогом - рог, и стих - стихом,
И этих истин ты не трогай.

Нет в очаге огня - беда,
Какая б ни была причина.
Конь должен быть конем всегда,
Мужчиной должен быть мужчина.

164
Mọi ngôi nhà đều phải là ngôi nhà
Đường ra đường – dù bé hay dù lớn
Sừng phải ra sừng, thơ phải là thơ
Những chân lý này xin đừng động đến.

Thật tai hoạ trong lò không có lửa
Bất kể nguyên nhân dù có dù không.
Đã là ngựa thì bao giờ cũng ngựa
Còn đàn ông phải ra dáng đàn ông.




165
Мне нужен колокол стозвонный,
Чтобы в бездонной вышине
Он пел о радости бессонной,
Когда приходишь ты ко мне.

Мне нужен колокол огромный,
Чтоб ночью он и среди дня
Гудел о грусти неуемной,
Когда уходишь от меня.

165
Anh cần chuông văng vẳng
Để thấu tận trời xanh
Về niềm vui bất tận
Khi em đến với anh.

Anh cần chuông rất lớn
Để ngày cũng như đêm
Gióng lên nỗi buồn vô hạn
Khi em đi khỏi nhà anh.


166
Утро моей жизни! Не измерить,
Сколько я с друзьями ликовал.
Вечер моей жизни! Не поверить,
Как я в одиночку тосковал...

Небо, звезд не зажигай ты лучше,
Пусть они исчезнут без следа...
И меня рассказами не мучай
О друзьях, ушедших навсегда...

166
Buổi sáng đời tôi không đo được
Với bạn bè biết mấy hân hoan.
Buổi chiều đời tôi không tin được
Một mình tôi biết mấy đau buồn…

Những ngôi sao giữa trời xin đừng hiện
Xin các người hãy biến hết đi…
Và xin đừng hành hạ tôi câu chuyện
Về những bạn bè tôi đã đi mãi không về…




167
Сердце мое - в огне, сердце мое - в огне...
Крыльев нет у меня - с сердцем что делать мне?..
Крылья есть у меня, чувствую за спиной,
Как высоки хребты, вставшие предо мной!..

Горы я одолел, горы перелетел...
Моря гудит простор: есть ли ему предел?..
Тяжки пути любви, нет тех дорог трудней -
Сколько преград пред ней... Сколько преград пред ней…

167
Con tim tôi trong lửa, con tim tôi đang cháy
Tôi biết làm sao, đôi cánh có không?
Đôi cánh có rồi, tôi cảm thấy sau lưng
Trước mặt tôi núi mọc lên từng dãy!...

Tôi vượt qua đồi, tôi bay qua núi
Biển gào lên: còn giới hạn nào không?
Đường tình yêu khó hơn mọi con đường
Trước tình yêu có bao nhiêu trở ngại...


168
Люди - мы мешки, мешки точь-в-точь,
А Земля - груженая подвода.
Белый конь и черный - День и Ночь -
Тащат эту ношу год за годом.

По путям, где ямы и витки,
По крутой дороге и неровной,
Чтоб в конце дороги те мешки
Высыпать в один сундук огромный.

168
Con người ta giống bao tải như in
Còn xe chở – đó chính là mặt đất.
Ngày và đêm – hai ngựa trắng và đen
Kéo xe đi năm này qua năm khác.

Trên đường đi có lắm rãnh, ổ gà
Dốc dựng đứng, đường gập ghềnh, không thẳng
Cuối con đường bao tải bị người ta
Đem tống vào một chiếc hòm rất lớn.





THƠ TÁM CÂU - 157-162



157
Чем больше и ярче весна –
Тем пение птиц веселее.
Но песнь их умолкнуть должна,
Едва лишь земля побелеет.

Чем снег тяжелей у крыльца
И чем безнадежней ненастье –
Тем трепетней песни певца,
Тем больше тепла в них и страсти.

157
Mùa xuân càng dài, càng sáng
Thì tiếng chim hót vui hơn.
Nhưng chim hót phải ngừng
Không thì đất hoá trắng.

Tuyết bên thềm càng nặng
Thì trời càng âm u –
Người hát càng say sưa
Lời ca càng cháy bỏng.


158
Мой друг не пишет мне писем,
Мой друг не пишет мне писем.
Я сам пишу себе письма,
Как будто пишет мне друг.

Я письма читаю соседям,
Я письма читаю соседям –
Прекрасные добрые письма,
Которых не пишет мне друг.

158
Người yêu không viết thư cho anh
Người yêu không viết thư cho anh.
Những bức thư cho mình anh viết
Có vẻ như em viết cho anh.

Anh đọc cho hàng xóm nghe thư
Anh đọc cho hàng xóm nghe thư
Hàng xóm nghe những lời tốt đẹp
Em chưa viết cho anh bao giờ.




159
Я проснулся на рассвете –
В небе ни единой тучи.
А вчера был дождь и ветер,
Мир был весь в слезах горючих.

Кто ж так высоко-высоко
В небо поднялся с метлою
И подмел в мгновенье ока
Небо, скованное мглою?

159
Tôi thức dậy buổi ban mai
Bầu trời vô cùng quang đãng.
Thế mà hôm qua mưa gió hoài
Cuộc đời trong nước mắt cháy bỏng.

Có ai đó từ rất cao
Giơ ra giữa trời cái chổi
Đã quét đi những ngôi sao
Bầu trời trở nên tăm tối.


160
Если в доме своем говорю - говорю я с тобой,
А когда я молчу - говорю я с землей голубой,
Говорю с нашим веком и с миром, когда я молчу,
Обращаюсь к родимым горам, и к волне, и к лучу…

А в пути говорю со вселенной - когда говорю,
А когда я молчу - значит, подле тебя я парю
И с тобою одной говорю - не с простором морей,
С моей утренней песней и сказкой вечерней моей…

160
Nếu nói trong nhà mình – là anh nói với em
Còn khi lặng im – nói với mặt đất xanh thắm.
Nói với thế kỷ, với cuộc đời – khi anh im lặng
Anh hướng tới mặt trời, con sóng, đồi núi quê hương.

Anh nói với cả vũ trụ khi ở trên đường
Còn khi lặng im, nghĩa là bên em bay liệng
Chỉ nói với một mình em – chứ không với biển
Với bài hát ban mai và câu chuyện hoàng hôn.




161
Печальный мой сосед, ты говоришь о том,
Как мне везет во всем - со мной судьбы, мол, милость...
Ты так не говори: встречался я со злом
Так часто, что тебе такое и не снилось...

Счастливый мой сосед, рассказываешь ты
О горестях моих, о бедах, о печали...
Ты так не говори - ведь больше доброты,
Чем встретил в жизни я, ты повстречал едва ли.

161
Người hàng xóm bất hạnh nói về tôi
Rằng số tôi may, nhà tôi có phúc...
Đừng nói vậy – tôi gặp nhiều cái ác
Và thường xuyên mà anh chẳng mơ ra…

Người hàng xóm hạnh phúc cũng kể về
Những nỗi buồn của tôi, về đau đớn...
Đừng nói thế – tôi gặp nhiều cái thiện
Trong cuộc đời, còn anh đã chắc chi.


162
Проклятие тебе, кинжал мой, коль из ножен
Я выхвачу тебя до часа слез и бед.
Проклятие тебе, мой стих, знай - ты ничтожен,
Когда ты просто так - пустой душою спет...

И дважды проклят будь, коль в час жестокой брани,
Кинжал мой, отдыхать ты будешь на стене.
И дважды проклят будь, в дни грозных испытаний,
Мой стих, коль станешь ты держаться в стороне...

162
Con dao của ta ơi, ta nguyền rủa mi
Ta chỉ rút dao ra trong giờ nước mắt.
Ta nguyền rủa thơ – thơ chẳng đáng gì
Khi với tâm hồn trống không thơ cứ hát…

Hai lần nguyền rủa, trong cái giờ chửi bới
Dao của ta ơi, mi hãy nghỉ trên tường.
Hai lần nguyền rủa, trong thử thách dữ dội
Thơ của ta ơi, mi hãy trở thành ngoan…




THƠ TÁM CÂU - 151-156



151
О радио, ты бога не гневи,
Восьмиминутный даровав мне срок,
Чтобы восьми избранницам в любви
Восьмого марта я признаться мог.

Восьми минут не мало ли на них
Или минутой обойдусь вполне?
Не мало ли мне женщин восьмерых,
А может, и одной куда как много мне?

151
Nhà đài ơi đừng giận chi Thượng đế
Tám phút trên đài xin hãy tặng cho tôi
Để tỏ tình yêu tôi sẽ nói những lời
Trong ngày 8-3 với tám người phụ nữ.

Tám phút trên đài liệu có ít cho tôi
Hay chỉ cần một phút thôi là đủ?
Liệu có ít cho tôi tám người phụ nữ
Khi chỉ một người thôi đã thấy quá nhiều rồi?



152
Поэтом не был я, когда с вершины
Твое влюбленно имя прошептал.
И песнею с той памятной годины
Оно слывет, уплыв за перевал.

Изречь немало, сделавшись поэтом,
Напевных слов мне было суждено,
Но не твое ли имя в мире этом
Есть лучшее, что мной изречено?

152
Không phải nhà thơ khi anh từ núi cao
Mà cái tên em nhắc đi nhắc lại.
Và bài ca từ thuở ban đầu ấy
Nó vang lên rồi bay biến qua đèo.

Nhà thơ viết ra không ít những lời hay
Trời sinh anh để bài ca anh viết
Nhưng có phải tên em trên đời này
Còn đẹp hơn những lời hay anh viết?



153
Товарищи далеких дней моих,
Ровесники, прожившие так мало!..`
Наверное, остался я в живых,
Чтоб память на земле не умирала.

На поле боя павшие друзья -
Вас было много, страстно жизнь любивших.
Я ведаю: в живых остался я,
Чтоб рассказать о вас, так мало живших.

153
Những bạn bè của tôi thời xa vắng
Bạn đồng niên còn sống chẳng mấy người!...
Nhưng có lẽ bây giờ tôi còn sống
Để kỷ niệm trên đời không chết đấy thôi.

Những bạn bè tôi chết ngoài mặt trận
Họ đã từng yêu tha thiết cuộc đời.
Tôi hiểu rằng: bây giờ tôi còn sống
Là để kể về những bè bạn của tôi.



154
На неведомых перронах
Выхожу я из вагона
На коротких остановках:
Вдруг увижу я тебя!

В дальних странах незнакомых,
На чужих аэродромах
Выхожу: вдруг ту увижу,
Что похожа на тебя!..

154
Trên những sân ga chưa từng biết
Anh bước ra khỏi toa tàu
Những khi con tàu dừng bánh không lâu
Bỗng anh nhìn thấy em, rất đột ngột!

Ở nhưng xứ sở không quen
Những sân bay chưa hề biết
Anh bước ra và rất đột ngột
Nhìn thấy người rất giống với em!..



155
Жизнь капризна. Мы все в ее власти.
Мы ворчим и ругаем житье.
...Чем труднее она, чем опасней -
Тем отчаянней любишь ее.

Я шагаю нелегкой дорогой,
Ямы, рытвины - только держись!
Но никто не придумал, ей-богу,
Ничего, что прекрасней, чем жизнь.

155
Đời đỏng đảnh. Ta mặc cho số phận
Ta vần xoay, ta chửi bới  cuộc đời.
...Đời càng nguy hiểm, khó khăn càng lắm
Ta càng yêu  đến tuyệt vọng không thôi.

Tôi bước đi vất vả giữa đường đời
Luôn dè chừng – hố nhỏ to có đủ!
Nhưng cuộc đời – tôi xin nói có trời
Chẳng có gì tuyệt vời hơn nó cả.



156
Все людям снится: радость, грусть
И прочный мир в дому...
Но только наши встречи пусть
Не снятся никому.

Пускай никто о нас с тобой
Не ведает вокруг -
Про наше счастье, нашу боль
И песни первый звук...

156
Người ta mơ những buồn, vui
Và hoà bình cho tất cả...
Nhưng những lần ta gặp gỡ
Thì chỉ có ta thôi.

Hãy để những người xung quanh
Không ai biết gì về ta cả --
Về hạnh phúc và đau khổ
Và bài hát đầu tiên...



THƠ TÁM CÂU - 145-150



145
Что не бывает в наши лета?
И я поныне не забыл,
Как враждовали два поэта
И как их третий примирил.

Былые схватки позабылись,
И оба, эка благодать,
Они в борьбе объединились
И стали... с третьим враждовать.

145
Đã từng có một lần
Đến bây giờ tôi còn nhớ mãi
Có hai nhà thơ thù hằn
Và người thứ ba đứng ra hoà giải.

Thế rồi thù hận họ quên nhanh
Cả hai trở nên thân thiết
Họ cùng hợp sức đấu tranh
Với người thứ ba như kẻ địch.



146
«Пошли со мной, джигит!» - «Куда?»
«Связала бы твой рот оскома.
Когда спешишь спросить «куда?» -
То лучше оставайся дома!»

«Пошли со мной, джигит!» - «Пошли!»
«Да будет верный и бедовый
Во всякий час в любой дали
Друг у тебя, на все готовый!»

146
“Đi cùng tôi, kỵ sĩ!" – "Đi đâu vậy?”
“Tốt nhất là anh im miệng cho rồi.
Khi cứ vội hỏi câu “đi đâu đấy”
Thì tốt nhất là hãy ở nhà thôi!”

“Đi cùng tôi, kỵ sĩ!" – "Ta đi bạn!”
“Thế là có người táo bạo, trung thành
Trong mọi thời gian, xa xôi chẳng quản
Người bạn của anh tất cả sẵn sàng!”



147
Божественной достигнув высоты
И отражая дней своих приметы,
Художники сумели на холсты
Перенести библейские сюжеты.

Пишу в стихах, любовью обуян,
Я образ твой, хотя запрет на это
Давным-давно как наложил Коран,
Но страсть моя сильней его запрета.

147
Một khi đạt đến đỉnh cao thần thánh
Những dấu hiệu của mình được thể hiện ra
Những người hoạ sĩ đã biết vẽ ra
Trên bức tranh câu chuyện trong Kinh Thánh.

Anh mô tả hình dáng em trong thơ
Dù điều này trong Koran đã cấm
Nhưng đam mê mạnh hơn điều cấm đoán
Đã được đặt vào trong sách Thánh từ xưa.



148
Не лучший я из тысячи других,
Но ты, когда-то встретившись со мною,
Вообразила, будто под луною
Из тысячи я лучше остальных.

Не худший я из тысячи, поверь,
Но ты моей ослеплена виною,
И потому из тысячи теперь
Кажусь тебе я худшим под луною.

148
Trong nghìn kẻ anh không người tốt nhất
Nhưng ngày đầu em gặp gỡ cùng anh
Em hình dung, em cứ ngỡ, dưới trăng
Trong nghìn kẻ anh tốt hơn người khác.

Trong nghìn kẻ anh không người xấu nhất
Nhưng lỗi của anh làm loá mắt nhìn
Vì thế, giờ đây trong số một nghìn
Dưới ánh trăng em ngỡ anh xấu nhất.



149
Как будто бы зажженная свеча,
Та женщина возникла предо мною,
И на нее, как стоя пред стеною,
Я из-за твоего гляжу плеча.

Назначил бы свиданье под луной
Владелице пленительного взгляда,
Но между этой женщиной и мной
Ты – непреодолимая преграда.

149
Có vẻ như ngọn nến vừa đốt lên
Người phụ nữ trước mặt anh xuất hiện
Trước bức tường anh lặng yên đứng ngắm
Nhưng chỉ nhìn ra bờ vai nhỏ của em.

Có vẻ như định trước buổi hẹn hò
Ánh mắt nhìn sau bờ mi quyến rũ
Nhưng ở giữa anh và người phụ nữ
Vật cản là em, không thể vượt qua.



150
Наступили весенние дни,
Снова птицы ворвались в дубравы,
Ничего-то не знают они
О великом недуге державы.

Был когда-то беспечен я сам,
Походя на веселую птицу.
Нынче внемлю иным голосам,
И слеза прожигает страницу.

150
Giờ mùa xuân đã về trước ngõ
Chim lại đua nhau về với rừng già
Chúng chẳng biết, chẳng hề hay gì cả
Về những điều đại họa của quốc gia.

Tôi ngày xưa cũng vô tư như vậy
Cũng từng giống như những chú chim vui.
Còn bây giờ nghe theo lời ai đấy
Để nước mắt rơi xuống ngậm ngùi.