Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 223-228



223
У меня были думы, но тщетно,
Не вплетя их ни в строки, ни в речь,
Как бумаги под грифом «секретно»,
Я старался их скрыть и сберечь.

Блекли мысли мои, выцветали,
Я их прятал - не помнил куда.
Иногда их назад возвращали,
Пропадали они иногда.

223
Tôi từng có nghĩ suy, nhưng vô ích
Vì lập tức không dệt chúng thành dòng
Như trang giấy có chữ đề “tuyệt mật”
Tôi gắng giấu đi và gắng giữ gìn.

Rồi những ý nghĩ nhạt dần, nhạt dần
Tôi giấu chúng nơi nào không còn nhớ.
Đôi khi chúng vẫn quay về lần nữa
Và có những khi chúng biến mất luôn.



224
Поэты  обходить не научен беду,
А радости сами проносятся мимо.
И я - Ленинград в сорок первом году,
И я - в сорок пятом году Хиросима.

Еврея - в Треблинке сжигают меня,
Я в Лидице - чех, я - француз в Орадуре.
Где б ни был пожар, не уйти от огня,
Где гром ни гремел бы, я гибну от бури.

224
Các nhà thơ tai nạn không tránh được
Còn niềm vui thì chỉ có đi ngang.
Tôi là Leningrad năm bốn mốt*
Là Hirôsima một chín bốn lăm.

Là người Do Thái ở Treblinka bị đốt lên
Người Séc ở Lidice, ở Oradour – người Pháp.
Có đám cháy thì lửa không thoát được
Nơi sấm đì đùng chết bởi bão giông.
____________
*Leningrad năm bốn mốt bị phát xít Đức bao vây; Hirôsima năm một chín bốn lăm bị ném bom nguyên tử; Treblinka là trại hủy diệt do phát xít Đức dựng lên ở Ba Lan; Lidice là ngôi làng ở Séc bị phát xít Đức đốt sạch năm 1942; Oradour-sur-Glane là ngôi làng ở Pháp bị phát xít Đức thảm sát năm 1944. 



225
Самосохранение - забота.
Люди, нам сопутствует боязнь.
Слышишь: в доме том, страшась чего-то,
Плачет человек, едва родясь.

Вечная боязнь куда-то гонит
По земле весь человечий род.
Слышишь, в этом доме тихо стонет
Старый горец в страхе, что умрет.

225
Tự bảo vệ – đấy là mối quan tâm.
Mọi người ơi, chúng ta luôn sợ hãi.
Nghe trong nhà có điều gì đáng sợ
Là khóc lên như người mới vừa sinh.

Nỗi sợ hãi muôn đời trên trái đất
Luôn xua đuổi cả nòi giống con người.
Nghe tiếng than thở trong ngôi nhà này
Ông già miền núi sợ rằng sẽ chết.



226
Если бы сочувствие людей
Стать могло бы для голодных пищей,
На камнях калькуттских площадей
Не было б изможденных нищих.

Если бы сочувствие людей
Стать могло бы крышею огромной,
Камни истамбульских площадей
Не были бы домом для бездомных.

226
Giá mà sự cảm thông của người ta
Thành đồ ăn cho những người đói khát
Thì trên đá quảng trường Calcutta
Không còn những người ăn xin kiệt sức.

Giá mà sự cảm thông của người ta
Có thể trở thành mái nhà rộng lớn
Thì đá quảng trường Istanbul đã chẳng
Thành ngôi nhà của kẻ vô gia cư.



227
Я нравом неунылый человек,
Я грустен по твоей недоброй воле.
Когда метель зимою сыплет снег,
Она сгибает тополь в чистом поле.

Я нравом далеко не весельчак,
Но я согрет твоим теплом лучистым.
Когда весна рассеивает мрак,
Вновь оживает тополь в поле чистом.

227
Tôi đây vốn là người thích vui vẻ
Tôi buồn vì ý thích xấu của em.
Khi cơn bão cuộn tuyết giữa mùa đông
Gập cây dương giữa cánh đồng rộng mở.

Tôi còn lâu mới là người vui vẻ
Nhưng sưởi ấm bằng hơi ấm của em.
Khi xuân về và xua đuổi bóng đêm
Cây dương ngời lên trên đồng rộng mở.



228
Разбуженный любовью на рассвете,
Пишу стихи о милой, но она
К ним равнодушна, и в минуты эти
Лежит в объятьях сладостного сна.

Всю ночь не льну я головой к подушке,
Пишу во гневе, недруга кляня,
А недруг веселится на пирушке,
Не вспоминая даже про меня.

228
Tình yêu thức tôi trong buổi sớm mai
Tôi làm thơ về em, nhưng em lại
Tỏ ra hững hờ, và trong phút ấy
Nằm trong vòng tay giấc ngủ ngọt ngào.

Suốt cả đêm không kê gối lên đầu
Giận dữ viết, rủa những ai thù nghịch
Nhưng kẻ thù đang vui trong bữa tiệc
Không nhớ gì, thậm chí cả về tôi.


THƠ TÁM CÂU - 217-222



217
Машет в облаках орел крылами,
Воробьи на склоне гнезда свили.
Мнят и воробьи себя орлами,
Да не дал им бог орлиных крыльев.

В море волны поднимает ветер.
В сонных речках неподвижны воды.
Морем мнят себя и речки эти,
Да не бороздят их пароходы.

217
Chim đại bàng vỗ cánh giữa trời xanh
Chim sẻ làm tổ trên vách dựng đứng.
Chim sẻ hình dung mình là đại bàng
Nhưng chỉ tiếc trời không cho đôi cánh.

Một cơn gió tạo sóng dâng trên biển.
Nước vẫn yên trên dòng suối mơ màng.
Những con suối hình dung mình là biển
Nhưng thiếu con tàu rẽ sóng tung tăng.



218
На камушках гадалка мне гадала,
Судьбу мою гадалка предсказала.
«Прекрасна цель твоя, - она сказала, -
Но в жизни у тебя врагов немало».

Постой, гадалка, не трудись напрасно,
Ведь ясно без гаданья твоего:
Когда у человека цель прекрасна,
Противников немало у него.

218
Người xem bói ngồi xem trên đá sỏi
Người đoán trước về số phận của tôi.
Thầy nói: “Mục đích của bạn tuyệt vời
Nhưng trong đời có kẻ thù vô khối”.

Thầy bói ơi, việc của người vô ích
Bởi không nghe, tôi cũng đã biết rồi:
Khi người ta có mục đích tuyệt vời
Thì kẻ thù chắc chắn không hề ít.



219
Вот Тадж-Махал. На этой башне старой
В далекие столетья при луне
Слагали песни пленницы Акбара
И плакали по отчей стороне.

Те песни и теперь не отзвучали,
Хоть от рожденья их прошли века.
Как долги и длинны пути печали!
Как радости дорога коротка!

219
Đây là Taj Mahal. Trên tòa tháp cổ
Trong những thời xa lắm dưới ánh trăng
Trong bài hát của kẻ bị giam cầm
Họ đã từng khóc về miền đất tổ.

Những bài hát giờ không còn vang nữa
Dù qua nhiều thế kỷ tự khi sinh.
Con đường vui thật ngắn ngủi vô cùng!
Thật dài lâu những con đường đau khổ!
______________
* Taj Mahal là một lăng mộ – thánh đường ở Agra, Ấn Độ; “những kẻ bị giam cầm” – tức những nữ tù binh của Akbar Đại đế (1542 – 1605).



220
На уроке учитель мне глобус вручал.
Хоть порой и грешил я неверным ответом,
Не холодный картон я к груди прижимал,
А весь мир, уместившийся в глобусе этом.

Мир теперь умещается в сердце моем,
Он во мне весь как есть - от позора до славы.
Это в сердце моем дальний слышится гром,
И шумят города, и враждуют державы.

220
Thầy giáo quay quả cầu trong giờ học.
Đôi khi tôi phạm lỗi trả lời sai
Bìa không lạnh, tôi ôm vào trong ngực
Cả thế gian hiện trên quả cầu này.

Cả thế giới trong tim tôi sắp đặt
Tất cả đủ đầy – từ nhục đến vinh.
Tôi nghe tiếng sấm ở trong tim mình
Thành phố ồn, những cường quốc thù nghịch.



221
Я возвратился из далеких странствий,
И матери погибших сыновей
Спросили, не встречал ли дагестанцев
На дальних берегах чужих морей.

И согрешил я ложью неподсудной,
Сказал: мол, встретился земляк один.
И матери замолкли, веря смутно,
Что это их давно пропавший сын.

221
Tôi trở về từ xứ sở xa xăm
Mẹ của những người con trai đã chết
Họ hỏi có gặp những người đồng hương
Dagestan nơi bến bờ xa lắc.

Tôi phạm lỗi vì một điều dối gian
Khi nói rằng: một đồng hương tôi gặp.
Những bà mẹ im lặng, tin mơ màng
Rằng đấy người con từ lâu họ mất.


222
Со мною смерть поссориться не жаждет.
Она давно уж, перейдя на «ты»,
Плыла за мной по морю не однажды,
Гналась в горах, чтоб сбросить с высоты.

То поотстав, то наступив на пятки,
Дыша надсадно за моей спиной,
Она со мною не играет в прятки,
Играет в салки, гонится за мной.

222
Thần chết không thích tranh cãi với tôi.
Cách gọi bằng “mày”, từ lâu đã chuyển
Từng bơi sau tôi nhiều lần trên biển
Đuổi lên cao để ném xuống từ đồi.

Khi giật lùi, khi lại theo sát gót
Thở hụt hơi, căng thẳng ở sau lưng
Không chơi với tôi trò chơi trốn tìm
Mà theo sát tôi bằng trò đuổi rượt. 


THƠ TÁM CÂU - 211-216



211
– Больные люди, что вам ждать сейчас?
– Те исцелятся, те умрут, быть может.
– Здоровые, что ожидает вас?
– Болезнь и смерть нас ожидает тоже.

– А вы, над кем свершился приговор,
А вас что ждёт, лежащие в могиле?
– Тех ожидает слава, тех – позор,
А тех – забвенье, будто б и не жили!

211
– Điều gì đang đợi những người đau ốm?
– Được chữa lành rồi lại chết mà thôi.
– Điều gì đang đợi những người khoẻ mạnh?
– Cái chết, tật nguyền đang đợi chúng tôi.

– Thế những kẻ khi nợ đời đã trả
Mong điều gì nơi chín suối nghỉ ngơi?
– Chỉ hai thứ: vinh quang và nhục nhã
Ngoài chúng ra đã không sống trên đời.



212
"Как живете-можете, удальцы-мужчины?»
«Коль жена плохая, так судьбу клянем!»
«Как живете-можете удальцы-мужчины?»
«Коль жена хорошая - хорошо живем!»

.«Как живете-можете, женщины-голубки?»
«Если муж недобрый - все вокруг черно!»
«Как живете-можете, женщины-голубки?»
«Если муж хороший - плохо все равно!»

212
“Hỡi đàn ông, các anh sống thế nào?”
“Nếu vợ tồi – chúng tôi trách số phận!”
“Hỡi đàn ông, các anh sống thế nào?”
“Nếu vợ tốt – chúng tôi đây sống ổn”

“Hỡi phụ nữ, các chị sống ra sao?”
“Nếu chồng xấu – thì cuộc đời đen đúa”
“Hỡi phụ nữ, các chị sống ra sao?”
“Nếu chồng tốt – đời chúng tôi vẫn tệ”



213
Ночь нудна, как длинная повесть.
Ночь темна, как нечистая совесть.
Как надоедливый гость эта ночь -
Медлит и не уходит прочь.

Ночь у ворот, в доме спят глубоко,
Друг мой идет, он еще далеко.
Жду я, не сплю я всю ночь напролет.
Утро наступит, друг мой придет.

213
Đêm tẻ nhạt, như một câu chuyện dài.
Đêm tối đen, như lương tâm ô uế.
Cái đêm này, như vị khách khó chịu
Cứ rình rang và không chịu đi ngay.

Đêm trước cổng, trong nhà đang ngủ say
Bạn chưa đến, bạn hãy còn xa lắm.
Tôi không ngủ, đợi chờ trong đêm vắng
Để sáng ngày bạn tôi sẽ đến đây.



214
Плод бессонниц моих и забот,
Книга, вот я беру тебя в руки.
Так, наверно, ребенка, рожденного в муке,
Мать впервые на руки берет.

Чем ты будешь, концом или славой?
Я держу тебя перед собой.
Так солдат гимнастерки обрывок кровавый
Поднимает, как знамя, - и в бой!

214
Thành quả của những đêm mất ngủ
Là cuốn sách tôi đỡ ở trên tay.
Dường như đứa con sinh trong đau khổ
Thì trên tay người mẹ bế lần đầu.

Sách thế nào? Vinh quang hay chấm hết
Tôi nâng cuốn sách lên trước mặt mình.
Người lính dùng áo thấm máu đỏ rực
Như lá cờ vào trận để xung phong!



215
Двадцатый век сурово хмурит брови,
Мы дети века, стыд нам и позор:
Ведь никогда так много лжи и крови
Не проливалось в мире до сих пор.

Двадцатый век устало щурит веки,
Мы дети века, честь нам и хвала:
Быть может, никогда, как в нашем веке,
Мир не боролся против лжи и зла.

215
Thế kỷ hai mươi chau đôi mày của mình
Ta những đứa con, thấy ngại ngùng, xấu hổ
Bởi chưa bao giờ dối gian, máu đổ
Lại thấy nhiều như thế ở trần gian.   

Thế kỷ hai mươi đã mỏi đôi mắt nhìn
Ta những đứa con xứng với điều danh dự:
Thế kỷ ta, chưa bao giờ như thế
Thế giới đấu tranh với ác độc, tham tàn.



216
И спросит дом родной на старой улице,
Когда замру я у его крыльца:
«Где твой отец?» Отвечу - дом нахмурится,
Как сын, узнав о гибели отца.

И спросит дом родной на старой улице:
«Куда ты братьев дел, ответь скорей!»
Отвечу я - и дом родной нахмурится,
Как старец, потерявший сыновей.

216
Trên phố xưa ngôi nhà ra câu hỏi
Khi tôi lịm đi bên bậc thềm nhà:
“Cha đâu?” Tôi trả lời – nhà cau có
Như đứa con trai biết đã mất cha.

Trên phố xưa ngôi nhà ra câu hỏi:
“Anh em giấu ở đâu, trả lời nhanh!”
Tôi trả lời – và ngôi nhà cau có
Như ông già đã mất đứa con mình.


THƠ TÁM CÂU - 205-210



205
Я знаю, есть тысячи всяких недугов
У жизни, у страсти у каждого дня.
Спасибо, родная, спасибо, подруга,
Твоя красота скрыла их от меня.

Есть много в сообществе нашем здоровом
Вопросов больных, пересудов и ссор…
Спасибо, родная, ты ласковым словом
Смогла заглушить их бессмысленный хор.

205
Anh biết rằng chứng tật có hàng ngàn
Ở trong đời, trong đam mê cũng vậy.
Cám ơn em – người vợ, người bạn gái
Sắc đẹp của em đã giấu chúng cho anh.

Có thật nhiều trong xã hội chúng ta
Những vấn đề, những điều gây tranh cãi…
Cám ơn em bằng những lời êm ái
Đã xua đi những lời nói vu vơ.



206
Пять состояний у меня на дню:
Меняюсь я, но не делюсь на части.
То я младенец - и тянусь к огню,
То молод я - и полон сил и страсти.

То старец я, то вновь бушует кровь,
И я - подросток, всем на удивленье.
Объединяет все - одна любовь,
Веду себя я по ее веленью.

206
Tôi có năm trạng thái trong một ngày
Tôi đổi thay nhưng không xoay nhiều cửa.
Tôi trẻ nhỏ – thích chơi đùa với lửa
Tôi thanh niên – khoẻ mạnh và mê say.

Tôi người già nhưng máu lại sôi lên
Vị thành niên làm người ta kinh ngạc.
Tôi đem tất cả nhập vào làm một
Thành tình yêu, sống theo lệnh của tình.



207
Помимо тех друзей, что есть вокруг,
На свете существует тайный круг
Моих друзей незримых, неизвестных...
Я тоже чей-то неизвестный друг.

Помимо тех врагов, что есть и так,
На свете существует сто ватаг
Моих врагов незримых, неизвестных...
Я тоже чей-то неизвестный враг.

207
Ngoài những bạn bè vẫn sống quanh mình
Ở trên đời còn có nhiều bạn kín.
Bạn không nhìn ra, bạn không biết tên
Và tự tôi – bạn của người chưa biết đến.

Ngoài những kẻ thù vẫn sống đó đây
Ở trên đời kẻ thù còn vô khối
Kẻ thù của tôi không ai biết, không hay…
Và tự tôi cũng là kẻ thù ai đấy.



208
Совсем не обязательно поэту,
Без передышки странствовать по свету -
Ведь истинный талант оставит мету,
Что не сотрут ни люди, ни года.

Отец мой за пределы Дагестана
Не выезжал... Но нынче, как ни странно,
Он бороздит моря и океаны,
А я из дальних стран спешу в Цада.

208
Không hoàn toàn bắt buộc với nhà thơ
Đi chu du khắp năm châu bốn biển
Nhà thơ tài để lại dấu vết, mà
Con người, thời gian, không gì lay chuyển.

Bố tôi cả đời chỉ ở Dagestan
Nhưng bây giờ quả là điều kì lạ
Bố rẽ sóng đi trên nhiều biển, đại dương*
Còn tôi từ xa xôi trở về làng vội vã.
_______________
*Tên của bố nhà thơ được đặt cho một con tàu.




209
Коль ты мне друг -
Есть просьба у меня:
Ни с кем другим не грейся у огня.
Едино для вороны и орла
Лишь небо, но не горная скала.

Вторая просьба кратка и строга:
Не тронь пандур заклятого врага.
Но если струн коснешься невзначай,
Моих мелодий ввек не вспоминай.

209
Nếu em là bạn –
Tôi có một yêu cầu:
Đừng ngồi với ai bên bếp lửa.
Cho quạ khoang và đại bàng như nhau
Nhưng chỉ bầu trời chứ không phải vách núi đá.

Điều thứ hai nghiêm ngặt hơn:
Đừng động đến cây đàn kẻ mà tôi nguyền rủa.
Còn nếu như em động đến vô tình
Thì giai điệu của tôi muôn đời em đừng nhớ.



210
Не ищи меня, смерть - сам приду,
Не замедлю к последнему сроку.
А пока еще жив, я, встречая звезду,
Не оставлю к надежде дорогу.

Ни о чем я, друзья, не молю.
Об одном лишь: на камне печали
Высечь слово святое ЛЮБЛЮ...
Да пребудет любовь как в начале.

210
Đừng tìm tôi, cái chết – tôi tự đến
Hạn cuối cùng tôi không chậm trễ đâu.
Còn bây giờ đang sống, gặp ngôi sao
Tôi sẽ không bỏ qua niềm hy vọng.

Bạn bè ơi chẳng có gì cầu khẩn
Ngoài một điều: trên phiến đá đau buồn
Xin hãy khắc một lời YÊU... thần thánh
Sẽ mãi còn tình yêu buổi đầu tiên.