Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2020

Bị em giam lỏng hơn hai mươi năm


37.В твоем плену я двадцать с лишним лет

В твоем плену я двадцать с лишним лет,
И кажется, ты мне связала руки.
Но вот порою друг или сосед
Берет меня из плена на поруки.

Но на свободе грустен я и слаб,
Вокруг бесцветно все, все лица серы.
И, как свободу получивший раб,
Я жить не в силах без своей галеры.

Так, с привязи сорвавшись, волкодав
Лишь поначалу весело резвится,
Но вскоре, все заборы обежав,
Спешит к привычной цепи возвратиться.

И я, свободе горестной взамен,
Предпочитаю свой извечный плен.

37.BỊ EM GIAM LỎNG HƠN HAI MƯƠI NĂM

Bị em giam lỏng hơn hai mươi năm
Anh ngỡ như chân tay mình bị trói
Nhưng một hôm ông láng giềng đi tới
Giải thoát anh ra khỏi cảnh giam cầm.

Ra tự do anh yếu đuối, anh buồn
Mọi gương mặt xung quanh đều màu xám
Giống kẻ nô lệ tự do được nhận
Biết sống làm sao khi thiếu chiến thuyền. 

Giống như chó săn phá được dây xiềng
Chỉ lúc đầu nhảy cẫng lên vui vẻ
Nhưng một hồi chạy vòng quanh bờ giậu
Lại quay về với xiềng xích đã quen. 

Và anh thích đem tự do buồn khổ
Đổi lấy giam cầm của em mãi mãi. 


Không ở đâu cảm thấy mình nhỏ bé


36.Нигде не чувствовал себя такой крупицей

Нигде не чувствовал себя такой крупицей,
Как здесь, где высится безбрежный океан.
Его я слушал, и воздал он мне сторицей –
Легенды пел, дарил мелодий ураган...

К нему пришел я гневом, болью поделиться,
Обидой жгучей! Но, смеясь, как мальчуган,
Он говорил мне: глупо гневаться и злиться
На то, что честь твою порочит интриган.

Я ни сочувствия не вызвал, ни печали.
Он говорил: какие выстрелы звучали,
Какие бури посещали белый свет,
Но все на месте – океан, скала, поэт!

Живи, как будто все твои невзгоды –
Ошибочный прогноз бюро погоды.

36.KHÔNG Ở ĐÂU CẢM THẤY MÌNH NHỎ BÉ

Không ở đâu cảm thấy mình nhỏ bé
Như ở đây, trước biển cả mênh mông
Tôi lắng nghe, biển trả gấp trăm lần
Bằng huyền thoại, những lời ca của gió… 

Tôi đến đây đem nỗi đau chia sẻ
Giận vô cùng! Nhưng như cậu bé con
Biển nói rằng: giận dữ là điên khùng
Để kẻ gian hùng làm mất danh dự. 

Tôi không thấy cảm thông hay buồn bã
Biển nói rằng: dù tiếng súng vang lên
Dù bao cơn bão quét qua trần gian
Vẫn an vị – biển, nhà thơ, vách đá! 

Hãy sống cứ như nghịch cảnh của ngươi –
Là do cơ quan dự báo thời tiết sai.  


Im lặng còn hơn tranh luận


35.Молчите лучше! Спор о песне и о хлебе

Молчите лучше! Спор о песне и о хлебе –
Лишь пустозвонство, лживый фарс и болтовня.
Отца клевали, а теперь клевать меня
Вы принимаетесь – ведь мой отец на небе!

А у него, признаться, не было ни дня
Без ваших коршунских нападок и долбежки:
«Мир – это хлеб, и мы съедим его до крошки,
А песней кормят не народ, а соловья».

«Нет, мне не надо сверх того, что я имею», –
Он пел и горцев ободрял струной своею.
Теперь воздвигнут он страной на пьедестал,
Теперь Гамзатом дорогим для вас он стал.

Но я ведь сын его и знаю, как завзята
Корысть, спешащая купить портрет Гамзата.

35.IM LẶNG CÒN HƠN TRANH LUẬN

Im lặng còn hơn tranh luận về thơ và bánh mì
Chỉ những lời ba hoa, những trò nói nhảm.
Họ từng đánh cha tôi, bây giờ tôi – họ đánh
Các anh có sao không – cha tôi ở trên trời! 

Phải thừa nhận rằng không có lấy một ngày
Mà cha tôi không bị người xúc phạm:
“Thế giới là bánh mì, chúng ta ăn từng mảnh
Nhưng thơ dân không viết ra mà chỉ họa mi”.

“Không, tôi không cần nhiều hơn những gì tôi có” –
Ông từng ngợi ca những người con của núi rừng.
Và giờ đây đất nước đã dựng tượng của ông
Gamzat trở nên thân thương với bao nhiêu người đó. 

Nhưng tôi là con ông, tôi biết rằng lợi lộc
Khi vội vàng đi mua bức chân dung Gamzat. 


Ngoài chiến trường


34.О, пропавший без вести солдат

О, пропавший без вести солдат
На войне, в атаке огневой,
Ждет тебя отчизна, дом и сад –
Возвращайся, ты для нас живой!

Но назвать могу я целый ряд
Заживо погибших! Постовой
Задержать их, проходимцев, рад –
Скрыли адрес, заработок свой...

А когда от них приходит весть,
Плачет мать, не в силах перенесть, –
Лучше бы в далекой стороне
Без вести пропали на войне.

Презираю! Не о них пою –
О погибших без вести в бою.

34.NGOÀI CHIẾN TRƯỜNG 

Ngoài chiến trường có biết bao người lính
Từng mất tích trong những cuộc tấn công
Tổ quốc chờ các anh, ngôi nhà, khu vườn
Với chúng tôi, các anh đang còn sống!

Nhưng tôi có thể gọi tên khối kẻ
Sống như mà chết! Hỡi những chốt canh
Hãy bắt giữ họ, những kẻ gian hùng
Giấu địa chỉ và tiền nong của họ… 

Để khi về họ người ta đưa tin
Bà mẹ khóc, dường như không chịu nổi –
Thà ở một nơi xa xôi nào đấy
Cứ như người mất tích trong chiến tranh. 

Tôi khinh bỉ! Tôi không ca về họ
Mà chỉ về những người mất tích nọ. 


Những kiến thức của anh là vô tận


33.Неизмеримы знания мои

Неизмеримы знания мои,
Неведенье мое неизмеримо.
Но меркнет перед мудростью любви
Ученый мир, когда ты мной любима.

Забыл я все, чего забыть не мог.
Тебя одну забыть не в состоянье.
Но этого мне хватит, видит бог,
Когда померкнет память на прощанье.

Что было, есть и будет? Ты одна –
Мой прошлый век, сегодняшний, грядущий.
Одна во все ты будешь времена, –
Клянусь, что я поющий, но не лгущий!

Я не завидовал, не мстил, не угнетал.
Кто о судьбе такой прекрасной не мечтал?

33.NHỮNG KIẾN THỨC CỦA ANH LÀ VÔ TẬN

Những kiến thức của anh là vô tận
Và vô vàn thiếu hiểu biết của anh. 
Nhưng thế giới khoa học đứng trước tình
Sẽ mờ nhạt khi được em yêu mến. 

Anh quên tất cả, nhưng không quên được
Một mình em là không thể nào quên. 
Nhưng mà anh thấy đủ, Thượng Đế nhìn
Khi giã biệt đang nhạt dần ký ức. 

Tất cả những gì đã, đang và sẽ
Quá khứ, hiện tại và tương lai anh
Em ở trong tất cả mọi thời gian
Anh xin thề, anh không hề nói dối!

Anh không ganh tỵ, không áp bức, trả thù
Cuộc đời đẹp như thế ai không mơ? 


Hỡi vách đá Tsadin


32.Мой краток век, Цадинская скала

Мой краток век, Цадинская скала,
Я – человек, а ты живешь веками.
Но я успел вкусить добра и зла
И боль терпел, как твой живучий камень.

Открылись мне поступки и дела,
Невиданные скалами доселе.
И кровь из ран душевных потекла,
Струясь, как влага из твоих расселин.

И ты, быть может, в странствиях была
И потому спокойна, как твердыня.
А может быть, от горного орла
Ты знаешь все, что происходит ныне?

Веками стоя как бессонный страж,
Ответь: тут был ли век такой, как наш?

32.HỠI VÁCH ĐÁ TSADIN

Hỡi vách đá Tsadin, cuộc đời tôi ngắn ngủi
Tôi là con người, còn ngươi sống ngàn năm.
Nhưng tôi nếm trải thiện ác ở trần gian
Và chịu đựng nỗi đau như là hòn đá vậy. 

Những công việc đã mở ra cho tôi
Những gì mà đá cũng không biết nổi.
Từ những vết thương tâm hồn máu chảy
Như nước chảy từ kẻ hở của ngươi. 

Có thể là ngươi xưa từng đi lại
Mà lặng yên, giống như bức trường thành.
Mà có thể, từ những chim đại bàng
Ngươi biết tất cả những gì đang xảy?

Xin người canh hàng thế kỷ trả lời:
Có thế kỷ nào như thế kỷ chúng tôi? 


Tôi cúi mình trước Phương Tây


31.Я преклоняюсь перед Западом, когда

Я преклоняюсь перед Западом, когда
Хожу по Лувру, слышу музыку Шопена...
Любовь Петрарки, Дон Кихота доброта,
Крылатость Гейне — жизнь без них несовершенна!

Перед Востоком преклоняюсь! Погляди
На это дивное японское трехстишье,
Там три арбы: две – сзади, третья – впереди, –
Все остальное для сокровища излишне!

Я преклоняюсь перед Севером давно!
Богатыри великих саг – несокрушимы!
Я перед Югом преклоняюсь! Пью вино
Его поэзии... Хафиз, Хайям – вершины!

Низкопоклонство это мне не повредит, –
Твердит мне Пушкин и Махмуд в горах твердит.

31.TÔI CÚI MÌNH TRƯỚC PHƯƠNG TÂY

Tôi cúi mình trước Phương Tây, khi dạo
Bảo tàng Louvre và nghe nhạc Sô-panh… 
Don Kihôtê, Hainơ, Petrarch thơ tình
Mà thiếu họ thì đời đâu hoàn hảo!

Tôi cúi mình trước Phương Đông! Hãy xem
Thật tuyệt vời thơ ba câu của Nhật
Hai câu – phía sau, câu thứ ba – phía trước
Mọi thứ khác là thừa thãi, không cần!

Tôi cúi mình trước Phương Bắc từ lâu!
Những anh hùng ca không gì phá hủy!
Cúi mình trước Phương Nam! Tôi uống rượu
Thơ Hafiz, Khayyam… là những đỉnh cao!

Sự cúi mình này không hề có hại
Pushkin nhắc, Mahmud nhắc trên núi. 


Người đã chết phải về với đất đai


30.Умерший должен предан быть земле

Умерший должен предан быть земле,
Где умер он, так небо начертало.
Отец мой погребен в Махачкале,
И смотрит он на площадь с пьедестала.

А брат, от ран погибший на войне,
Над Волгой похоронен в Балашове.
Другой, в бою не пожалевший крови,
Остался в черноморской глубине.

В Буйнакске мать моя погребена,
Была святейшей женщиной она.

Я старшим стал, теперь черед за мной.
Но, где бы от недуга или пули
Я ни окончил грешный путь земной,
Молю меня похоронить в ауле.

30.NGƯỜI ĐÃ CHẾT PHẢI VỀ VỚI ĐẤT ĐAI

Người đã chết phải về với đất đai
Dù chết ở đâu, sách trời định rõ.
Bố tôi chôn ở Makhachkala
Và ông nhìn ra quảng trường từ bệ.

Còn anh trai đã chết trong chiến tranh
Chôn ở vùng Volga, thành phố Balashov
Một người khác cũng chết nơi trận mạc
Đã bỏ mình ở dưới đáy biển đen. 

Mẹ tôi chôn ở Buynaksk, Dagestan 
Bà là một người phụ nữ thánh thiện.

Tôi đã già, giờ đến lượt của mình
Dù chết vì chiến tranh hay bệnh tật
Khi con đường trần của tôi kết thúc
Tôi cầu xin chôn tôi ở trong làng. 


Nhà thông thái phát minh ra đồng hồ


29.Был мудрецом, кто изобрел часы

Был мудрецом, кто изобрел часы,
И люди многоопытные знают:
Лишь мальчики часов не наблюдают,
Пока у них не вырастут усы.

Но как же мог я, взрослый человек,
В хмельной гульбе транжирить дни и ночи,
Того не наблюдая, что короче,
Врагам на радость, делался мой век?

И вознеслась гора моих грехов:
Я – времени убитого виновник
И собственных надежд безумный кровник
И света не увидевших стихов.

Раскаясь в том, я пожелать могу
Всю жизнь часов не наблюдать врагу.

29.NHÀ THÔNG THÁI PHÁT MINH RA ĐỒNG HỒ

Nhà thông thái phát minh ra đồng hồ
Những người kinh nghiệm đầy mình vẫn biết:
Chỉ những cậu bé không nhìn đồng hồ
Một khi trên mép bộ ria chưa mọc. 

Nhưng mà tôi thì đã người lớn rồi
Lại phung phí thời gian mình trong quán
Không xem đồng hồ, rằng đang dần ngắn
Ngày tháng của tôi, để kẻ thù vui?

Và núi đồi mang tội của tôi lên
Giết chết thời gian – tôi người có lỗi
Kẻ điên cuồng của hy vọng chính mình
Những câu thơ cuộc đời không còn thấy. 

Tôi ân hận, mong cho kẻ thù tôi
Không xem đồng hồ trong suốt cuộc đời. 


Khi tôi chuẩn bị cho chuyến đi xa


28.Собрался в страны дальние когда

Собрался в страны дальние когда,
Сказала мать: «Ты гость простого люда,
И с добрым сердцем поезжай туда,
И с добрым сердцем возвратись оттуда».

Великий смысл таил ее завет,
И понял я пред истиной в ответе:
Плохих народов на планете нет.
Хоть есть плохие люди на планете.

Не потому ль поведал без вранья
О дальних странах Дагестану я?

И смог его во славу зрелых лет
Представить миру в нелукавом свете.
Мне материнский помнится завет,
И я, поэт, пред истиной в ответе.

28.KHI TÔI CHUẨN BỊ CHO CHUYẾN ĐI XA

Khi tôi chuẩn bị cho chuyến đi xa
Mẹ tôi bảo: “Làm khách dân thường nhé
Với tấm lòng tốt con đi đến đó
Và với lòng tốt khi con trở về”.

Ý nghĩa vĩ đại ẩn trong những lời
Câu trả lời, tôi hiểu điều chân lý:
Trên hành tinh không có dân tộc xấu
Dù có những con người xấu trên đời. 

Có phải thế mà tôi trung thực kể
Về chuyến đi cho Dagestan của tôi?

Có thể ở tuổi trưởng thành trong đời
Tôi giới thiệu bằng những lời giản dị
Khi nhớ lại những lời kia của mẹ
Tôi, nhà thơ, trước chân lý trả lời.