Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 211-216



211
– Больные люди, что вам ждать сейчас?
– Те исцелятся, те умрут, быть может.
– Здоровые, что ожидает вас?
– Болезнь и смерть нас ожидает тоже.

– А вы, над кем свершился приговор,
А вас что ждёт, лежащие в могиле?
– Тех ожидает слава, тех – позор,
А тех – забвенье, будто б и не жили!

211
– Điều gì đang đợi những người đau ốm?
– Được chữa lành rồi lại chết mà thôi.
– Điều gì đang đợi những người khoẻ mạnh?
– Cái chết, tật nguyền đang đợi chúng tôi.

– Thế những kẻ khi nợ đời đã trả
Mong điều gì nơi chín suối nghỉ ngơi?
– Chỉ hai thứ: vinh quang và nhục nhã
Ngoài chúng ra đã không sống trên đời.



212
"Как живете-можете, удальцы-мужчины?»
«Коль жена плохая, так судьбу клянем!»
«Как живете-можете удальцы-мужчины?»
«Коль жена хорошая - хорошо живем!»

.«Как живете-можете, женщины-голубки?»
«Если муж недобрый - все вокруг черно!»
«Как живете-можете, женщины-голубки?»
«Если муж хороший - плохо все равно!»

212
“Hỡi đàn ông, các anh sống thế nào?”
“Nếu vợ tồi – chúng tôi trách số phận!”
“Hỡi đàn ông, các anh sống thế nào?”
“Nếu vợ tốt – chúng tôi đây sống ổn”

“Hỡi phụ nữ, các chị sống ra sao?”
“Nếu chồng xấu – thì cuộc đời đen đúa”
“Hỡi phụ nữ, các chị sống ra sao?”
“Nếu chồng tốt – đời chúng tôi vẫn tệ”



213
Ночь нудна, как длинная повесть.
Ночь темна, как нечистая совесть.
Как надоедливый гость эта ночь -
Медлит и не уходит прочь.

Ночь у ворот, в доме спят глубоко,
Друг мой идет, он еще далеко.
Жду я, не сплю я всю ночь напролет.
Утро наступит, друг мой придет.

213
Đêm tẻ nhạt, như một câu chuyện dài.
Đêm tối đen, như lương tâm ô uế.
Cái đêm này, như vị khách khó chịu
Cứ rình rang và không chịu đi ngay.

Đêm trước cổng, trong nhà đang ngủ say
Bạn chưa đến, bạn hãy còn xa lắm.
Tôi không ngủ, đợi chờ trong đêm vắng
Để sáng ngày bạn tôi sẽ đến đây.



214
Плод бессонниц моих и забот,
Книга, вот я беру тебя в руки.
Так, наверно, ребенка, рожденного в муке,
Мать впервые на руки берет.

Чем ты будешь, концом или славой?
Я держу тебя перед собой.
Так солдат гимнастерки обрывок кровавый
Поднимает, как знамя, - и в бой!

214
Thành quả của những đêm mất ngủ
Là cuốn sách tôi đỡ ở trên tay.
Dường như đứa con sinh trong đau khổ
Thì trên tay người mẹ bế lần đầu.

Sách thế nào? Vinh quang hay chấm hết
Tôi nâng cuốn sách lên trước mặt mình.
Người lính dùng áo thấm máu đỏ rực
Như lá cờ vào trận để xung phong!



215
Двадцатый век сурово хмурит брови,
Мы дети века, стыд нам и позор:
Ведь никогда так много лжи и крови
Не проливалось в мире до сих пор.

Двадцатый век устало щурит веки,
Мы дети века, честь нам и хвала:
Быть может, никогда, как в нашем веке,
Мир не боролся против лжи и зла.

215
Thế kỷ hai mươi chau đôi mày của mình
Ta những đứa con, thấy ngại ngùng, xấu hổ
Bởi chưa bao giờ dối gian, máu đổ
Lại thấy nhiều như thế ở trần gian.   

Thế kỷ hai mươi đã mỏi đôi mắt nhìn
Ta những đứa con xứng với điều danh dự:
Thế kỷ ta, chưa bao giờ như thế
Thế giới đấu tranh với ác độc, tham tàn.



216
И спросит дом родной на старой улице,
Когда замру я у его крыльца:
«Где твой отец?» Отвечу - дом нахмурится,
Как сын, узнав о гибели отца.

И спросит дом родной на старой улице:
«Куда ты братьев дел, ответь скорей!»
Отвечу я - и дом родной нахмурится,
Как старец, потерявший сыновей.

216
Trên phố xưa ngôi nhà ra câu hỏi
Khi tôi lịm đi bên bậc thềm nhà:
“Cha đâu?” Tôi trả lời – nhà cau có
Như đứa con trai biết đã mất cha.

Trên phố xưa ngôi nhà ra câu hỏi:
“Anh em giấu ở đâu, trả lời nhanh!”
Tôi trả lời – và ngôi nhà cau có
Như ông già đã mất đứa con mình.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét