Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 217-222



217
Машет в облаках орел крылами,
Воробьи на склоне гнезда свили.
Мнят и воробьи себя орлами,
Да не дал им бог орлиных крыльев.

В море волны поднимает ветер.
В сонных речках неподвижны воды.
Морем мнят себя и речки эти,
Да не бороздят их пароходы.

217
Chim đại bàng vỗ cánh giữa trời xanh
Chim sẻ làm tổ trên vách dựng đứng.
Chim sẻ hình dung mình là đại bàng
Nhưng chỉ tiếc trời không cho đôi cánh.

Một cơn gió tạo sóng dâng trên biển.
Nước vẫn yên trên dòng suối mơ màng.
Những con suối hình dung mình là biển
Nhưng thiếu con tàu rẽ sóng tung tăng.



218
На камушках гадалка мне гадала,
Судьбу мою гадалка предсказала.
«Прекрасна цель твоя, - она сказала, -
Но в жизни у тебя врагов немало».

Постой, гадалка, не трудись напрасно,
Ведь ясно без гаданья твоего:
Когда у человека цель прекрасна,
Противников немало у него.

218
Người xem bói ngồi xem trên đá sỏi
Người đoán trước về số phận của tôi.
Thầy nói: “Mục đích của bạn tuyệt vời
Nhưng trong đời có kẻ thù vô khối”.

Thầy bói ơi, việc của người vô ích
Bởi không nghe, tôi cũng đã biết rồi:
Khi người ta có mục đích tuyệt vời
Thì kẻ thù chắc chắn không hề ít.



219
Вот Тадж-Махал. На этой башне старой
В далекие столетья при луне
Слагали песни пленницы Акбара
И плакали по отчей стороне.

Те песни и теперь не отзвучали,
Хоть от рожденья их прошли века.
Как долги и длинны пути печали!
Как радости дорога коротка!

219
Đây là Taj Mahal. Trên tòa tháp cổ
Trong những thời xa lắm dưới ánh trăng
Trong bài hát của kẻ bị giam cầm
Họ đã từng khóc về miền đất tổ.

Những bài hát giờ không còn vang nữa
Dù qua nhiều thế kỷ tự khi sinh.
Con đường vui thật ngắn ngủi vô cùng!
Thật dài lâu những con đường đau khổ!
______________
* Taj Mahal là một lăng mộ – thánh đường ở Agra, Ấn Độ; “những kẻ bị giam cầm” – tức những nữ tù binh của Akbar Đại đế (1542 – 1605).



220
На уроке учитель мне глобус вручал.
Хоть порой и грешил я неверным ответом,
Не холодный картон я к груди прижимал,
А весь мир, уместившийся в глобусе этом.

Мир теперь умещается в сердце моем,
Он во мне весь как есть - от позора до славы.
Это в сердце моем дальний слышится гром,
И шумят города, и враждуют державы.

220
Thầy giáo quay quả cầu trong giờ học.
Đôi khi tôi phạm lỗi trả lời sai
Bìa không lạnh, tôi ôm vào trong ngực
Cả thế gian hiện trên quả cầu này.

Cả thế giới trong tim tôi sắp đặt
Tất cả đủ đầy – từ nhục đến vinh.
Tôi nghe tiếng sấm ở trong tim mình
Thành phố ồn, những cường quốc thù nghịch.



221
Я возвратился из далеких странствий,
И матери погибших сыновей
Спросили, не встречал ли дагестанцев
На дальних берегах чужих морей.

И согрешил я ложью неподсудной,
Сказал: мол, встретился земляк один.
И матери замолкли, веря смутно,
Что это их давно пропавший сын.

221
Tôi trở về từ xứ sở xa xăm
Mẹ của những người con trai đã chết
Họ hỏi có gặp những người đồng hương
Dagestan nơi bến bờ xa lắc.

Tôi phạm lỗi vì một điều dối gian
Khi nói rằng: một đồng hương tôi gặp.
Những bà mẹ im lặng, tin mơ màng
Rằng đấy người con từ lâu họ mất.


222
Со мною смерть поссориться не жаждет.
Она давно уж, перейдя на «ты»,
Плыла за мной по морю не однажды,
Гналась в горах, чтоб сбросить с высоты.

То поотстав, то наступив на пятки,
Дыша надсадно за моей спиной,
Она со мною не играет в прятки,
Играет в салки, гонится за мной.

222
Thần chết không thích tranh cãi với tôi.
Cách gọi bằng “mày”, từ lâu đã chuyển
Từng bơi sau tôi nhiều lần trên biển
Đuổi lên cao để ném xuống từ đồi.

Khi giật lùi, khi lại theo sát gót
Thở hụt hơi, căng thẳng ở sau lưng
Không chơi với tôi trò chơi trốn tìm
Mà theo sát tôi bằng trò đuổi rượt. 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét