Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 25-30



25
Нового, сверхмощного оружья
Не изобретайте для людей.
Стародавнее оружье - дружба
Вложена в ножны души моей.

Нам отцы и деды завешали
Золото оружья своего,
Чтобы мы сломать его не дали,
Чтоб не дали затупить его.

25
Những vũ khí mới cực kỳ hiện đại
Đừng chế tạo ra chống lại con người.
Vũ khí tự ngàn xưa – tình hữu ái
Hãy đặt vào trong bao vỏ cho tôi.

Lời di chúc của cha ông để lại
Cho chúng ta là thứ vũ khí vàng
Để chúng ta không cho ai bẻ gãy
Để chúng ta không cho họ làm cùn.



26
Шумит листвой иной зеленый сад
И шепчет: мол, цвету я всем на зависть!
А в небе тучи, предвещая град,
Глядят, смеясь, на молодую завязь.

Иные люди с легкостью твердят,
Как счастливо они живут на свете.
А счастье хмурит свой недобрый взгляд:
«Какие вы глупцы, какие дети!»

26
Trong vườn xanh những chiếc lá reo vang
Rồi thì thầm: ta ghen cùng ánh sáng!
Còn trên trời những đám mây trĩu nặng
Ngó xuống cười những chiếc lá còn xanh.

Còn một số người dễ dàng quả quyết
Rằng họ hạnh phúc sung sướng trên đời.
Còn hạnh phúc thì lại chau lông mày:
“Ôi các con thật vô cùng dại dột!”




27
«Дайте мне отцовского коня,
Я скакать умею, слава богу!»
Я вскочил в седло, но конь меня
Сбросил, и упал я на дорогу.

«Тише, люди. Я играть начну,
Дайте мне пандур отца хваленый...»
Только тронул пальцами струну -
И струна оборвалась со звоном.

27
“Hãy đưa tôi con ngựa của cha tôi
May mắn thay là tôi còn biết nhảy!”
Tôi nhảy lên và con ngựa quẳng tôi
Ngã lăn quay bên vệ đường lúc ấy.

“Mọi người nghe. Tôi bắt đầu chơi đây
Trao cho tôi cây đàn cha ca tụng...”
Chỉ vừa mới động ngón tay vào dây
Thì dây đàn đứt ra cùng với tiếng.



28
Не вечным мне кажется наш небосвод.
Он шатким и ветхим порою мне кажется.
Порою мне кажется: небо вот-вот
Падет мне на голову всей своей тяжестью.

Но высятся горы, и я защищен
Вершинами горными, горными кручами,
Они подпирают собой небосклон,
Как старую кровлю опоры могучие.

28
Tôi cứ ngỡ bầu trời không muôn thuở
Mà nát nhàu và ọp ẹp, rung rinh
Giờ tôi ngỡ rằng bầu trời sắp sửa
Đổ xuống đầu tôi với sức nặng của mình.

Nhưng những ngọn núi nhô cao bảo vệ
Bằng những đỉnh cao bằng những dốc cao
Chúng sừng sững vươn mình lên chống đỡ
Như mái nhà xưa có những cột to cao.



29
«Где же ты, счастье, где светлый твой лик?»
«Я на вершинах, куда не всходил ты!»
«Где же ты, счастье? Вершин я достиг».
«В реках, в которых покуда не плыл ты!»

«Где ты, я тысячу рек переплыл?»
«В песнях, которые завтра ты сложишь!»
«Где ты, я песню тебе посвятил?»
«Я впереди! Догони, если можешь!»

29
“Hạnh phúc ơi, ở đâu gương mặt ngươi kiều diễm?”
“Trên đồi cao, người chưa tới bao giờ!”
“Ngươi ở đâu? Đồi cao tôi đã đến”.
“Ở trên sông, nơi người chẳng đi qua!”

“Ngươi ở đâu? Nghìn con sông đã bơi”.
“Trong bài hát, ngày mai người sẽ nghĩ!”
“Ngươi ở đâu? Bài hát viết xong rồi”.
“Ở phía trước! Hãy theo, nếu còn có thể!”



30
На полях, где зреет урожай,
Мы скупую землю орошаем.
На полях созреет урожай -
Мы хлеба под корень подрезаем.

Но просторы этих же полей
Нашей кровью орошает горе.
И самих жнецов, и плугарей,
Как хлеба, срезает нас под корень.

30
Trên những cánh đồng lúa đang tốt tươi
Ta tưới nước cho mặt đất khô khốc.
Trên những cánh đồng lúa đã chín rồi –
Những ruộng lúa mì ta cắt tận gốc.

Nhưng khoảng rộng của những cánh đồng này
Tưới bằng máu của ta bao khó nhọc
Và chính những người thợ gặt, thợ cày
Như lúa mì đang bị cắt tận gốc.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét