Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

Tiếng mẹ đẻ



13.Родной язык

Всегда во сне нелепо всё и странно.
Приснилась мне сегодня смерть моя.
В полдневный жар в долине Дагестана
С свинцом в груди лежал недвижно я.

Звенит река, бежит неукротимо.
Забытый и не нужный никому,
Я распластался на земле родимой
Пред тем, как стать землею самому.

Я умираю, но никто про это
Не знает и не явится ко мне,
Лишь в вышине орлы клекочут где-то
И стонут лани где-то в стороне.

И чтобы плакать над моей могилой
О том, что я погиб во цвете лет,
Ни матери, ни друга нет, ни милой,
Чего уж там — и плакальщицы нет.

Так я лежал и умирал в бессилье
И вдруг услышал, как невдалеке
Два человека шли и говорили
На мне родном, аварском языке.

В полдневный жар в долине Дагестана
Я умирал, а люди речь вели
О хитрости какого-то Гасана,
О выходках какого-то Али.

И, смутно слыша звук родимой речи,
Я оживал, и наступил тот миг,
Когда я понял, что меня излечит
Не врач, не знахарь, а родной язык.

Кого-то исцеляет от болезней
Другой язык, но мне на нем не петь,
И если завтра мой язык исчезнет,
То я готов сегодня умереть.

Я за него всегда душой болею,
Пусть говорят, что беден мой язык,
Пусть не звучит с трибуны ассамблеи,
Но, мне родной, он для меня велик.

И чтоб понять Махмуда, мой наследник
Ужели прочитает перевод?
Ужели я писатель из последних,
Кто по-аварски пишет и поёт?

Я жизнь люблю, люблю я всю планету,
В ней каждый, даже малый уголок,
А более всего Страну Советов,
О ней я по-аварски пел как мог.

Мне дорог край цветущий и свободный,
От Балтики до Сахалина — весь.
Я за него погибну где угодно,
Но пусть меня зароют в землю здесь!

Чтоб у плиты могильной близ аула
Аварцы вспоминали иногда
Аварским словом земляка Расула —
Преемника Гамзата из Цада.

13.TIẾNG MẸ ĐẺ

Luôn trong mơ mọi thứ rất lạ lùng
Ngày hôm nay tôi mơ phút lâm chung.
Viên đạn chì trong ngực, tôi bất động
Giữa buổi trưa, thung lũng Dagestan.

Dòng sông reo, sông nổi giận đùng đùng
Tôi bị bỏ quên, không một ai cần
Tôi nằm xoài trên mảnh đất quê mẹ
Trước khi trở thành đất của quê hương.

Tôi đang sắp chết, nhưng về điều này
Không ai biết, không ai đến với tôi
Chỉ đại bàng gào thét lên đâu đó
Và đâu đây rên rỉ tiếng hươu nai. 

Và để khóc lóc trên mộ của tôi
Rằng tuổi thanh xuân đã phải lìa đời
Không người yêu, bạn bè hay cha mẹ
Còn nói gì người khóc mướn cho ai.

Tôi nằm thế, chết trong vẻ đã rồi
Bỗng đột nhiên nghe rõ, chẳng xa xôi
Có hai người vừa đi vừa nói chuyện
Bằng tiếng Ava – tiếng mẹ đẻ của tôi.

Vào giữa trưa trời nắng trong thung lũng
Tôi chết rồi, thiên hạ vẫn nói gì
Về những trò tinh nghịch của Ali
Về Hasan nào đó đầy ranh mãnh.

Và nghe lờ mờ âm thanh tiếng mẹ
Tôi hồi sinh, và trong khoảnh khắc này
Tôi hiểu rằng chữa lành bệnh cho tôi
Nhờ tiếng mẹ, không phải nhờ bác sĩ. 

Thứ tiếng nào chữa lành bệnh cho ai
Nhưng bằng tiếng này tôi không hát được
Nếu ngày mai tiếng của tôi biến mất
Tôi sẵn sàng để chết ngày hôm nay.

Bằng tấm lòng tôi cổ vũ tiếng này
Dù ai nói rằng tiếng tôi nghèo lắm
Không vang lên trên diễn đàn chấp chính
Nhưng tiếng tôi luôn vĩ đại với tôi.

Để hiểu Mahmut, người thừa kế của tôi
Chẳng lẽ rồi đây đọc qua bản dịch?
Chẳng lẽ tôi là nhà văn sau chót
Người làm thơ bằng tiếng Ava thôi?

Tôi yêu đời, yêu cả trái đất này
Mà trong đó, dù chỉ góc nhỏ nhặt
Và hơn hết là quê hương Xô Viết
Bằng tiếng Ava tôi hát về Người.

Tôi yêu quí vùng đất tự do này
Từ biển Baltic đến Sakhalin – tất cả.
Tôi sẽ chết dù nơi nào cũng thế
Nhưng hãy chôn tôi trên đất nơi đây. 

Để trên bia mộ gần ngôi làng kia
Người Ava sẽ đôi khi nhớ lại
Tiếng Ava của người đồng hương ấy
Rasul – con của Gamzat, người làng Tsada.
_________
*Hasan, Ali, Mahmut – là những tên riêng xuất phát từ tiếng Ả Rập, là những tên riêng rất phổ biến trong thế giới Hồi giáo.
**Gamzat Tsadasa (1877 – 1951) – cha của Rasul Gamzatov, nhà thơ nhân dân của nước cộng hòa Dagestan; Tsada là ngôi làng nơi Rasul Gamzatov sinh ra.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét