Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

TIỂU SỬ Rasul Gamzatov


Rasul Gamzatovich Gamzatov (tiếng Nga: Расу́л Гамза́тович Гамза́тов; tiếng Avar: Расул Xiамзатов, 8 tháng 9 năm 1923 – 3 tháng 11 năm 2003) – nhà thơ nổi tiếng thế giới của dân tộc Avar, thi hào dân tộc Dagestan, anh hùng lao động Liên Xô (1974), giải thưởng Lenin (1963), giải thưởng Stalin (1959).
******
Tiểu sử:
Rasul Gamzatov sinh tại làng Tsada, huyện Khunzakhsky, Dagestan. Bố là nhà thơ Gamzat Tsadasa (1877 – 1951). Từ nhỏ đã được bố đọc thơ và kể cho nghe nhiều huyền thoại của núi đồi làm cho Rasul say đắm. Học phổ thông ở Dagestan, tốt nghiệp trường trung cấp sư phạm Avar năm 1939 và làm giáo viên đến năm 1941, sau đó làm phó đạo diễn nhà hát, nhà báo ở các báo và đài địa phương. Từ năm 1945 đến 1950 học trường viết văn Maxim Gorky ở Moskva. Sau khi tốt nghiệp, Rasul Gamzatov được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà văn của Dagestan năm 1951, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào tháng 11/2003.
******
Rasul Gamzatov được bầu làm đại biểu Xô Viết tối cao rồi phó chủ tịch Xô Viết tối cao nước cộng hòa Dagestan. Sau đó được bầu làm đại biểu Xô Viết tối cao và thành viên Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô. Trong thời gian hàng chục năm liền ông là đại biểu của các kỳ Đại hôi Hội nhà văn Dagestan, Nga và Liên Xô, là thành viên của Hội đoàn kết các nhà văn Á-Phi, thành viên Hội đồng Giải thưởng Lenin và Giải thưởng Nhà nước Liên Xô, thành viên Hội đồng bảo vệ hòa bình thế giới, Phó chủ tịch Hội đồng đoàn kết các dân tộc Á-Phi của Liên Xô. Thành viên Hội đồng biên tập của những tờ báo và tạp chí văn học nổi tiếng nhất của Liên Xô và Nga.

Vì những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực văn học, Rasul Gamzatov đã được trao nhiều danh hiệu và giải thưởng của Dagestan, Nga, Liên Xô và thế giới: nhà thơ Nhân dân của Dagestan, Anh hùng Lao động xã hội chủ nghĩa, người đoạt giải thưởng Lenin, giải thưởng Nhà nước Nga và Liên Xô, các giải thưởng quốc tế: “Nhà văn hay nhất thế kỷ XX”, giải “Lotus” của các nhà văn Á – Phi, các giải thưởng mang tên Javaharlal Nehru, Firdousi, Hristo Botev, Sholokhov, Lermontov, Fadeev, Batyray, Mahmud, S. Stalsky, G. Tsadasa.
******
Rasul Gamzatov bắt đầu làm thơ từ năm 1932 (lên chín tuổi) và bắt đầu in thơ từ năm 1937 ở báo “Người Bôn-sê-vích của núi đồi” (Большевик гор). Quyển thơ đầu tiên bằng tiếng Ava in năm 1943. Năm hai mươi tuổi ông đã trở thành Hội viên của Hội Nhà văn Liên Xô. Kể từ đó, bằng tiếng Avar và tiếng Nga, bằng nhiều ngôn ngữ của Dagestan, Kavkaz và toàn thế giới, hàng chục cuốn sách thơ, văn xuôi và các bài viết của ông đã được xuất bản. Ngoài sáng tác, Rasul Gamzatov cũng dịch thơ Pushkin, Lermontov, Shevchenko, Mayakovsky, Esenin và nhiều nhà thơ Nga khác, cũng như các nhà thơ Ả Rập ra tiếng Ava.

Rất nhiều bài thơ của ông được các nhạc sĩ phổ nhạc trở thành những bài hát nổi tiếng. Hàng chục quyển thơ, văn của ông được in bằng tiếng Ava, tiếng Nga và nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Thơ Rasul Gamzatov bằng tiếng Việt có các bản dịch của Thúy Toàn, Thái Bá Tân và Nguyễn Viết Thắng. Phần dịch ra tiếng Việt của chúng tôi gồm 621 bài thơ, trong đó: Thơ tuyển – 24 bài; Thơ sonnet – 50 bài; Thơ tám câu – 250 bài; Thơ bốn câu – 165 bài; Thơ trào phúng – 14 bài; Thơ khắc, thơ đề – 103 bài; Bút tích đề trong sách tặng người khác – 14 bài; Lời hay ý đẹp rút từ các tác phẩm văn xuôi và dịch Hai bài viết của Rasul Gamzatov.   
******
Toàn bộ sáng tạo của Rasul Gamzatov là một cuốn sách của trí tuệ và lòng dũng cảm, của tình yêu và nỗi đau, của lời nguyền rủa và lời nguyện cầu, của lòng tin và chân lý, của khoảnh khắc và thế kỷ. Rasul Gamzatov mãi mãi là một nhà nhân văn lớn. Thơ ông là tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu mặt đất này và cả thế giới, ông đấu tranh không khoan nhượng với cái ác, cái thấp hèn trên mặt đất này.
******
Rasul Gamzatov mất ngày 3 tháng 11 năm 2003 ở Moskva, mai táng tại nghĩa trang Hồi giáo Makhachkala, bên cạnh mộ vợ ông.

Tác phẩm chính:
*Tình yêu say đắm và thù hận trào dâng (Пламенная любовь и жгучая ненависть, 1943), tập thơ
*Đồi núi của ta (Наши горы, 1947), thơ
*Đất của tôi (Земля моя. Даггосиздат, 1948), thơ
*Những khúc hát của núi rừng (Песни гор. М., 1948), thơ
*Quê hương của người miền núi (Родина горца, 1950), tập thơ
*Năm sinh của tôi (Год моего рождения, 1950), tập Thơ và Trường ca
*Lời về người anh trai (Слово о старшем брате, 1952), tập thơ
*Trò chuyện với cha (Разговор с отцом, 1953), trường ca
*Mùa xuân Dagestan (Дагестанская весна, 1955), tập thơ
*Sơn nữ (Горянка, 1958), trường ca
*Lòng tôi ở Cao nguyên (В горах моё сердце, 1959), tập thơ
*Những ngôi sao xa (Высокие звёзды. Стихи и поэма, 1963), thơ và trường ca
*Chữ viết. Thơ tám câu. Thơ trào phúng. Thơ đề (Письмена. Восьмистишия, эпиграммы, надписи. М., 1963-1969), tập thơ
*Thơ tuyển 2 tập (Избранное в двух томах), 1964), thơ
*Thư viện thơ trữ tình chọn lọc (Библиотека избранной лирики, 1965), thơ
*Và sao cháy với sao (И звезда с звездою говорит, 1964), thơ
*Cô gái lai (Мулатка. Стихи, 1966), thơ  
*Ông nội tôi (Для детей: “Мой дедушка”, 1967), thơ cho trẻ em
*Dagestan của tôi (Мой Дагестан, 1968), truyện
*Sau đấy là gì? ( А что потом?, 1969), thơ
*Giờ thứ ba (Третий час, 1971), thơ
*Hãy gìn giữ bạn bè (Берегите друзей, 1972), thơ  
*Thơ sonnetонеты, 1973), thơ
*Đàn sếu (Журавли, 1975), thơ-bài hát
*Hãy gìn giữ mẹ (Берегите матерей, 1978), trường ca
*Thời gian và những con đường (Времена и дороги, 2004), trường ca
*Chúc thư: thơ tuyển (Завещание: Избранные стихотворения, 2009), thơ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét