Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

THƠ TÁM CÂU - 67-72



67
«Почему серебряная птица
К нашим не спускается ногам,
Нас она не любит иль боится?»
«Может, любит, но не верит нам!»

«Почему всегда и всюду звери
Норовят исчезнуть с наших глаз,
Нас не любят или же не верят?»
«Может, любят, но боятся нас!»

67
“Tại vì sao mà con chim màu trắng
Không bay vào đậu ở dưới chân ta?
Chim không yêu hay là chim sợ ta?”
“Có thể yêu, nhưng mà không tin tưởng!”

“Tại vì sao con thú trước mắt ta
Khắp mọi nơi đều tìm cách lẩn tránh?
Thú không yêu hay là không tin tưởng?”
“Có thể yêu nhưng vì thú sợ ta!”



68
Жизнь - ковер. Но ткал я неумело,
И теперь я сам себя стыжу.
Много лишних линий и пробелов
Я в своем узоре нахожу.

Книгу я писал, но неумело:
В ней пустым страницам нет числа.
Где в пути ты задержалась, зрелость?
Почему так поздно ты пришла?

68
Đời – tấm thảm. Nhưng tôi không biết dệt
Nên giờ đây thấy xấu hổ vô cùng.
Tôi tìm ra trong những viền hoạ tiết
Có quá nhiều những lỗ hổng, đường vênh.

Sách đã viết nhưng chẳng hề nhuần nhuyễn
Trong sách kia những trang nhạt ê hề
Ở đâu trên đường người dừng chân, độ chín
Và tại sao người đến muộn thế kia?




69
В Индии считается, что змеи
Первыми на землю приползли.
Горцы верят, что орлы древнее
Прочих обитателей земли.

Я же склонен думать, что вначале
Появились люди, и поздней
Многие из них орлами стали,
А иные превратились в змей.

69
Người Ấn Độ cho rằng trên mặt đất
Loài rắn là loài xuất hiện trước tiên
Người rừng núi tin rằng trên mặt đất
Chỉ chim đại bàng có mặt đầu tiên.

Còn riêng tôi, thì tôi lại nghĩ rằng
Chỉ con người xuất hiện, rồi sau đấy
Trong số họ nhiều người thành đại bàng
Còn số khác lại biến thành rắn vậy.



70
Вот родился маленький джигит, -
Мне мерещится, что я родился,
Где-то свадьба пляшет и шумит, -
Мне мерещится, что я женился.

Где-то в поле человек убит,
Где-то мать над павшим сыном стонет,
Где-то плачут женщины навзрыд.
Мне мерещится: меня хоронят.

70
Vừa mới sinh ra một chàng kỵ sĩ
Tôi ngỡ rằng tôi vừa mới ra đời.
Ở đâu đó đám cưới đang ầm ĩ
Tôi ngỡ rằng đang cưới vợ cho tôi.

Ở đâu đó có một người bị giết
Bà mẹ già thương tiếc đứa con trai
Những người phụ nữ ngồi khóc thảm thiết
Tôi ngỡ rằng những kẻ khác chôn tôi.



71
Хоть и давно я слышал сказку эту,
Она мне вспоминается опять:
Взяв за руку, водил по белу свету
Скорбящий сын свою слепую мать.

Он шел и шел и вылечил старуху,
И свет дневной увидела она...
Земля слепая, дай скорее руку,
Пойдем со мною, ты прозреть должна.

71
Dù từ lâu đã nghe câu chuyện kể
Nhưng giờ đây đang nhớ lại trong lòng:
Chuyện chàng trai đã cầm tay người mẹ
Người mẹ mù chập chững bước theo con.

Chàng cứ đi... chữa đôi mắt lành hẳn
Ánh sáng ngày giờ mẹ đã nhìn xa...
Trái đất mù hãy đưa tay tôi nắm
Đi cùng tôi người phải sáng mắt ra.



72
Все хлопают, все поздравляют стоя
Меня с очередною из наград.
А я не рад, я вижу: эти двое
Глядят в глаза мне и меня корят.

Они за мною следуют повсюду,
Их лица и мое - лицо одно..
Один старик, тот, кем я скоро буду,
Другой - мальчишка, кем я был давно.

72
Tất cả mọi người đứng dậy chúc mừng tôi
Họ vỗ tay mừng tôi thêm phần thưởng.
Nhưng tôi không vui, tôi thấy hai người
Nhìn vào mắt tôi có điều trách mắng.

Họ theo tôi khắp tất cả mọi miền
Gương mặt họ và của tôi rất giống
Một – ông già sau này tôi trở nên
Một – cậu bé là tôi thời xa vắng.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét