Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

THƠ TUYỂN - Tôi yêu một trăm cô gái


1.Я влюблен в сто девушек

Я в сотню девушек влюблен,
Они везде, повсюду,
Они и явь, они и сон,
Я век их помнить буду.
Я помню давнюю весну:
Мальчишка босоногий,
Я встретил девочку одну
С кувшином на дороге.
Казалось, девочка была
Совсем, как тот кувшин, мала.
Вода была холодной в нем –
Я знал наверняка, –
Но обожгла меня огнем
Вода из родника.
Таил насмешку быстрый взор…
Ее люблю я до сих пор.

А позже – в стужу и весной
У сизых волн каспийских
Я брел за девушкой одной,
Не подходя к ней близко.
Ходил за ней я как во сне,
По улицам кружа,
А чтоб увидеть тень в окне
Второго этажа,
Влезал я на высокий клен...
Я до сих пор в нее влюблен.

Не позабыть, пока живу,
Мне девушки одной,
Что как-то ехала в Москву
В одном купе со мной.
Спасибо, дорогой кассир,
Что дал места нам рядом,
Что с ней в одно окно на мир
Одним смотрели взглядом.
Так, рядом с ней, вдвоем, без слов
Всю жизнь я ехать был готов.

Мне злая девушка одна
И до сих пор мила,
Что, раздражения полна,
Стихи мои рвала.

Люблю я взгляд веселых глаз
Одной девчонки милой,
Что в восхищенье столько раз
Стихи мои хвалила.

Я в злую девушку влюблен,
В простую девушку влюблен,
И в очень строгую влюблен,
И в недотрогу я влюблен,
И в равнодушную влюблен,
И в девушку смешливую,
И я в послушную влюблен,
Влюблен я и в строптивую.
Я в каждом городе влюблен,
На всех путях-маршрутах,
В студенток разных я влюблен
Всех курсов института.
Своей любовью окрылен,
Их всех зову я «милой», –
Я в сотню девушек влюблен
С одной и той же силой.

Но ты мрачнеешь – неспроста!
Ты даже с места встала.
«Ах значит, я одна из ста?
Спасибо, я не знала!..»

Я отвечаю: нет, постой,
Мой друг, все сто в тебе одной!
Сто разных девушек в тебе,
А ты одна в моей судьбе!..

Когда бежал я у села
Мальчишкой босоногим,
Ведь это ты с кувшином шла
По узенькой дороге.

А в городе, средь суеты,
Где Каспия прибой,
Не замечала разве ты,
Как шел я за тобой?
Потом – ты помнишь стук колес
И поезд, что в Москву нас вез?
Сто девушек – то ты сама,
Ты их вместила всех,
В тебе – и лето и зима,
В тебе – печаль и смех.
Порой ты равнодушная,
Бываешь злой – не скрою,
Порою ты послушная
И нежная порою...
Куда бы ни летела ты,
Я за тобой летел,
Чего б ни захотела ты,
Добыть тебе хотел.
С тобою шли мы по горам,
Где туч стада лежали,
И к самым разным городам
Мы вместе подъезжали.

Я в сотню девушек влюблен
С одной и той же силой...
Тебя, любовью окрылен,
Сто раз зову я «милой».

В тебе сто девушек любя,
В сто раз сильней люблю тебя!

1.TÔI YÊU MỘT TRĂM CÔ GÁI


Tôi yêu một trăm cô gái
Họ ở khắp mọi chốn, mọi nơi
Họ ở cả trong mộng, ngoài đời
Tôi sẽ nhớ người ta mãi mãi.
Tôi nhớ về một ngày xuân:
Ngày còn là cậu bé chân trần
Tôi gặp một cô gái trẻ
Ôm chiếc bình đi trên đường.
Khi đó tôi ngỡ rằng cô bé
Bé bỏng như chiếc bình.
Nước lạnh trong chiếc bình – 
Tôi biết chắc như thế –
Nhưng dòng nước từ nguồn
Đã đốt tôi lên bằng ngọn lửa.
Giấu ánh mắt nhìn thật nhanh…
Đến bây giờ tôi vẫn yêu cô ấy.

Sau đó – ngày xuân cũng như băng giá
Bên những con sóng của biển Ca-xpiên
Tôi thơ thẩn theo một nàng
Không bước đến gần
Tôi bước đi như là trong giấc ngủ
Lượn vòng trên đường phố
Để được thấy chiếc bóng bên cửa sổ
Từ tầng hai
Rồi trèo lên một cây phong rất cao…
Tôi yêu cô ta kể từ ngày đó.

Một ngày mà tôi còn thở
Thì không quên một cô nàng
Khi đi tàu lên Moskva một lần
Hai đứa cùng chung một buồng
Xin cám ơn người bán vé
Đã bán cho hai chỗ một buồng
Để tôi với nàng qua ô cửa sổ
Nhìn cuộc đời bằng một ánh nhìn chung.
Chúng tôi ngồi bên nhau lặng im
Tôi muốn suốt đời được đi tàu như thế.

Với tôi một cô gái ác
Đến giờ tôi vẫn thấy yêu
Đấy là cái lần nàng bực tức
Đã đem xé nát thơ tôi.

Tôi yêu cái nhìn của ánh mắt vui
Của một cô gái đẹp
Biết bao nhiêu lần thán phục
Đã khen thơ tôi hết lời.

Tôi yêu một cô gái ác
Tôi yêu một cô bình thường
Và yêu một cô nghiêm khắc
Yêu một cô hay dỗi hờn
Yêu một cô rất dửng dưng
Yêu một cô cười thường xuyên
Tôi yêu một cô ngoan ngoãn
Tôi yêu một cô ngang bướng.
Tôi yêu ở khắp chốn thị thành
Trên khắp mọi nẻo đường
Tôi yêu mọi nữ sinh viên
Tất cả các năm ở trường đại học
Tôi luôn mở lòng mình
Gọi tất cả là “em yêu thương”
Tôi yêu một trăm cô gái
Và chỉ bằng một tình yêu như vậy.

Nhưng mặt em sa sầm xám xịt
Em không thèm đứng dậy, cất lời:
“Nghĩa là em trong số một trăm người?
Cám ơn anh, thế mà em không biết!..”

Tôi trả lời: khoan em ơi, đừng vội
Em thân yêu, trong em cả một trăm
Trong người em có một trăm cô gái
Còn em một mình trong số phận của anh!..

Cái ngày anh còn bé
Chạy chân đất trong làng
Chẳng phải em đã ôm chiếc bình
Đi trên con đường nhỏ.

Còn khi giữa ồn ào đường phố
Bên sóng biển Ca-xpiên
Chẳng lẽ em đã không để ý nhìn
Khi anh đi theo sau em như thế?
Sau đó – tiếng bánh xe, em còn nhớ
Của con tàu chở ta đến Moskva?
Một trăm cô gái – chính là em đó mà
Trong em có một trăm cô gái
Trong em – có mùa đông, mùa hè
Trong em – cả niềm vui, nỗi khổ
Cũng có khi em dửng dưng
Có khi ác – anh không hề giấu giếm
Lại có khi em ngoan ngoãn
Và có khi em thật dịu dàng…
Dù em có đi về nơi đâu
Thì anh lại vẫn theo sau
Khi em có điều gì ao ước
Thì anh phải tìm cho bằng được
Ta từng đi trên những ngọn đồi
Nơi còn đọng những đám mây
Và anh với em vẫn hai người
Từng đi đến biết bao thành phố.

Anh yêu cả một trăm cô gái
Vẫn bằng một tình yêu như vậy..
Anh mở cõi lòng mình cho em
Một trăm lần anh gọi “em yêu thương”.

Anh yêu một trăm cô gái trong em
Nghĩa là yêu em mạnh gấp một trăm lần!


TIỂU SỬ Rasul Gamzatov


Rasul Gamzatovich Gamzatov (tiếng Nga: Расу́л Гамза́тович Гамза́тов; tiếng Avar: Расул Xiамзатов, 8 tháng 9 năm 1923 – 3 tháng 11 năm 2003) – nhà thơ nổi tiếng thế giới của dân tộc Avar, thi hào dân tộc Dagestan, anh hùng lao động Liên Xô (1974), giải thưởng Lenin (1963), giải thưởng Stalin (1959).
******
Tiểu sử:
Rasul Gamzatov sinh tại làng Tsada, huyện Khunzakhsky, Dagestan. Bố là nhà thơ Gamzat Tsadasa (1877 – 1951). Từ nhỏ đã được bố đọc thơ và kể cho nghe nhiều huyền thoại của núi đồi làm cho Rasul say đắm. Học phổ thông ở Dagestan, tốt nghiệp trường trung cấp sư phạm Avar năm 1939 và làm giáo viên đến năm 1941, sau đó làm phó đạo diễn nhà hát, nhà báo ở các báo và đài địa phương. Từ năm 1945 đến 1950 học trường viết văn Maxim Gorky ở Moskva. Sau khi tốt nghiệp, Rasul Gamzatov được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà văn của Dagestan năm 1951, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào tháng 11/2003.
******
Rasul Gamzatov được bầu làm đại biểu Xô Viết tối cao rồi phó chủ tịch Xô Viết tối cao nước cộng hòa Dagestan. Sau đó được bầu làm đại biểu Xô Viết tối cao và thành viên Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô. Trong thời gian hàng chục năm liền ông là đại biểu của các kỳ Đại hôi Hội nhà văn Dagestan, Nga và Liên Xô, là thành viên của Hội đoàn kết các nhà văn Á-Phi, thành viên Hội đồng Giải thưởng Lenin và Giải thưởng Nhà nước Liên Xô, thành viên Hội đồng bảo vệ hòa bình thế giới, Phó chủ tịch Hội đồng đoàn kết các dân tộc Á-Phi của Liên Xô. Thành viên Hội đồng biên tập của những tờ báo và tạp chí văn học nổi tiếng nhất của Liên Xô và Nga.

Vì những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực văn học, Rasul Gamzatov đã được trao nhiều danh hiệu và giải thưởng của Dagestan, Nga, Liên Xô và thế giới: nhà thơ Nhân dân của Dagestan, Anh hùng Lao động xã hội chủ nghĩa, người đoạt giải thưởng Lenin, giải thưởng Nhà nước Nga và Liên Xô, các giải thưởng quốc tế: “Nhà văn hay nhất thế kỷ XX”, giải “Lotus” của các nhà văn Á – Phi, các giải thưởng mang tên Javaharlal Nehru, Firdousi, Hristo Botev, Sholokhov, Lermontov, Fadeev, Batyray, Mahmud, S. Stalsky, G. Tsadasa.
******
Rasul Gamzatov bắt đầu làm thơ từ năm 1932 (lên chín tuổi) và bắt đầu in thơ từ năm 1937 ở báo “Người Bôn-sê-vích của núi đồi” (Большевик гор). Quyển thơ đầu tiên bằng tiếng Ava in năm 1943. Năm hai mươi tuổi ông đã trở thành Hội viên của Hội Nhà văn Liên Xô. Kể từ đó, bằng tiếng Avar và tiếng Nga, bằng nhiều ngôn ngữ của Dagestan, Kavkaz và toàn thế giới, hàng chục cuốn sách thơ, văn xuôi và các bài viết của ông đã được xuất bản. Ngoài sáng tác, Rasul Gamzatov cũng dịch thơ Pushkin, Lermontov, Shevchenko, Mayakovsky, Esenin và nhiều nhà thơ Nga khác, cũng như các nhà thơ Ả Rập ra tiếng Ava.

Rất nhiều bài thơ của ông được các nhạc sĩ phổ nhạc trở thành những bài hát nổi tiếng. Hàng chục quyển thơ, văn của ông được in bằng tiếng Ava, tiếng Nga và nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Thơ Rasul Gamzatov bằng tiếng Việt có các bản dịch của Thúy Toàn, Thái Bá Tân và Nguyễn Viết Thắng. Phần dịch ra tiếng Việt của chúng tôi gồm 621 bài thơ, trong đó: Thơ tuyển – 24 bài; Thơ sonnet – 50 bài; Thơ tám câu – 250 bài; Thơ bốn câu – 165 bài; Thơ trào phúng – 14 bài; Thơ khắc, thơ đề – 103 bài; Bút tích đề trong sách tặng người khác – 14 bài; Lời hay ý đẹp rút từ các tác phẩm văn xuôi và dịch Hai bài viết của Rasul Gamzatov.   
******
Toàn bộ sáng tạo của Rasul Gamzatov là một cuốn sách của trí tuệ và lòng dũng cảm, của tình yêu và nỗi đau, của lời nguyền rủa và lời nguyện cầu, của lòng tin và chân lý, của khoảnh khắc và thế kỷ. Rasul Gamzatov mãi mãi là một nhà nhân văn lớn. Thơ ông là tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu mặt đất này và cả thế giới, ông đấu tranh không khoan nhượng với cái ác, cái thấp hèn trên mặt đất này.
******
Rasul Gamzatov mất ngày 3 tháng 11 năm 2003 ở Moskva, mai táng tại nghĩa trang Hồi giáo Makhachkala, bên cạnh mộ vợ ông.

Tác phẩm chính:
*Tình yêu say đắm và thù hận trào dâng (Пламенная любовь и жгучая ненависть, 1943), tập thơ
*Đồi núi của ta (Наши горы, 1947), thơ
*Đất của tôi (Земля моя. Даггосиздат, 1948), thơ
*Những khúc hát của núi rừng (Песни гор. М., 1948), thơ
*Quê hương của người miền núi (Родина горца, 1950), tập thơ
*Năm sinh của tôi (Год моего рождения, 1950), tập Thơ và Trường ca
*Lời về người anh trai (Слово о старшем брате, 1952), tập thơ
*Trò chuyện với cha (Разговор с отцом, 1953), trường ca
*Mùa xuân Dagestan (Дагестанская весна, 1955), tập thơ
*Sơn nữ (Горянка, 1958), trường ca
*Lòng tôi ở Cao nguyên (В горах моё сердце, 1959), tập thơ
*Những ngôi sao xa (Высокие звёзды. Стихи и поэма, 1963), thơ và trường ca
*Chữ viết. Thơ tám câu. Thơ trào phúng. Thơ đề (Письмена. Восьмистишия, эпиграммы, надписи. М., 1963-1969), tập thơ
*Thơ tuyển 2 tập (Избранное в двух томах), 1964), thơ
*Thư viện thơ trữ tình chọn lọc (Библиотека избранной лирики, 1965), thơ
*Và sao cháy với sao (И звезда с звездою говорит, 1964), thơ
*Cô gái lai (Мулатка. Стихи, 1966), thơ  
*Ông nội tôi (Для детей: “Мой дедушка”, 1967), thơ cho trẻ em
*Dagestan của tôi (Мой Дагестан, 1968), truyện
*Sau đấy là gì? ( А что потом?, 1969), thơ
*Giờ thứ ba (Третий час, 1971), thơ
*Hãy gìn giữ bạn bè (Берегите друзей, 1972), thơ  
*Thơ sonnetонеты, 1973), thơ
*Đàn sếu (Журавли, 1975), thơ-bài hát
*Hãy gìn giữ mẹ (Берегите матерей, 1978), trường ca
*Thời gian và những con đường (Времена и дороги, 2004), trường ca
*Chúc thư: thơ tuyển (Завещание: Избранные стихотворения, 2009), thơ


MỤC LỤC TÁC PHẨM



MỤC LỤC TÁC PHẨM

Tiểu Sử Rasul Gamzatov

THƠ TUYỂN - 24 BÀI

2. Bài ca
12. Mẹ
19. Ta thay đổi không ít theo tháng năm
20. Bốn lời khuyên cho bạn
21. Em còn nhớ
22. Hãy gìn giữ bạn bè
23. Khi trong ta mọi thứ đều tốt lành
24. Bài thơ cuối cùng của Rasul Gamzatov
                       
HÃY XỬ ANH THEO LUẬT CỦA TÌNH YÊU - 50 BÀI


24. Tôi từng muốn một điều gì từ lâu
25. Có vô vàn đường sá ở trần gian
26. Thử hỏi anh tôi có tệ lắm không
27. Ở trường Tình yêu
28. Khi tôi chuẩn bị cho chuyến đi xa
29. Nhà thông thái phát minh ra đồng hồ
30. Người đã chết phải về với đất đai
31. Tôi cúi mình trước Phương Tây
32. Hỡi vách đá Tsadin
33. Những kiến thức của anh là vô tận
34. Ngoài chiến trường
35. Im lặng còn hơn tranh luận
36. Không ở đâu cảm thấy mình nhỏ bé
37. Bị em giam lỏng hơn hai mươi năm
38. Có một phong tục của người miền núi
39. Chắc gì còn một phần ba con đường
40. Trên đầu của chúng ta vào lúc ấy
41. Cha của tôi là nhà thơ miền núi
42. Người đẹp nhà thơ Eldarilav
43. Một hôm điều kỳ diệu đến với tôi
44. Em nói rằng anh cần phải thường xuyên
45. Những bông hoa
46. Em đừng tin
47. Anh trong đời tha thứ cho nhiều thứ
48. Những cựu chiến binh sửa soạn về hưu
49. Trong thời tuổi trẻ ngắn ngủi của anh
50. Hỡi người phụ nữ  

THƠ TÁM CÂU – 250 BÀI

1. 1- 6
2. 7 – 12
3. 13 – 18
4. 19 – 24 
5. 25 – 30
6. 31 – 36
7. 37 – 42
8. 43 – 48
9. 49 – 54
10.  55 – 60
11.  61 – 66
12.  67 – 72
13.  73 – 78
14.  79 – 84
15.  85 – 90
16.  91 – 96
17.  97 – 102
18. 103 – 108
19.  109 – 114
20.  115 – 120
21.  121 – 126
22.  127 – 132
23.  133 – 138
24.  139 – 144
25.  145 – 150
26.  151 – 156
27.  157 – 162
28.  163 – 168
29.  169 – 174
30.  175 – 180
31.  181 – 186
32.  187 – 192
33.  193 – 198
34.  199 – 204
35.  205 – 210
36.  211 – 216
37.  217 – 222
38.  223 – 228
39.  229 – 234
40.  235 – 240
41.  241 – 250

THƠ TRÀO PHÚNG – 14 BÀI 

1.  1 – 9
2.  10 – 14

THƠ BỐN CÂU – 166 BÀI 

1. 1 – 10
2. 11 – 20
3. 21 – 30
4. 31 – 40
5. 41 – 50
6. 51 – 60
7. 61 – 70
8. 71 – 80
9. 81 – 90
10.  91 – 100
11.  101 – 110
12.  111 – 120
13.  121 – 130
14.  131 – 140
15.  141 – 150
16.  151 – 160
17.  161 – 166

THƠ KHẮC, THƠ ĐỀ - 103 BÀI

*Thơ khắc trên bia mộ (1 – 16) 

*Thơ đề trước cổng, trước cửa (17 – 25)

*Thơ khắc trên đồng hồ (26 – 32) 

*Thơ khắc trên dao găm (33 – 43) 

*Thơ khắc trên sừng rượu (44 – 52) 

*Thơ khắc trên bếp lửa, lò sưởi (53 – 60) 

*Thơ khắc trên bình gốm Balkhar (61 – 64) 

*Thơ khắc trên những cây đàn (65 – 71) 

*Thơ đề trên nôi (72 – 76) 

*Thơ đề trên vách đá (77 – 80) 

*Thơ ghi trên những lá cờ (81 – 85) 

*Thơ đề trên những cuốn sách (86 – 94) 

*Thơ khắc trên cột mốc đường (95 – 100) 

*Thơ đề trên áo buốc-ca (101 – 103) 

BÚT TÍCH ĐỀ TẶNG TRONG SÁCH – 14 BÀI

*Bút tích đề trong sách tặng người khác (1 – 8)

*Bút tích đề trong sách tặng người khác (9 – 14)

LỜI HAY Ý ĐẸP


BÀI VIẾT - 2 BÀI

1– Đàn sếu giữa trời
2– Những ngôi sao sáng 



24+50+250+14+166+103+14 = 621 BÀI